Trong cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược, bảo vệ nền độc lập của dân tộc ở thế kỷ 11, trước sức mạnh đánh giặc ngút trời của quân và dân Đại Việt, danh tướng Lý Thường Kiệt hào sảng viết bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Đây được xem như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta, khẳng định chủ quyền dân tộc, lãnh thổ đất nước và thắng lợi tất yếu của quân và dân Đại Việt trước mọi kẻ thù xâm lược. “Bình Ngô đại cáo”, do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi soạn thảo và tuyên đọc sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Minh xâm lược, khôi phục nền độc lập dân tộc, chủ quyền của đất nước ở thế kỷ 15, được xem như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai.
Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt toàn Đảng, toàn dân, soạn thảo và đọc là Tuyên ngôn độc lập thứ ba trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuyên ngôn độc lập này kế thừa những tinh hoa trong hai bản Tuyên ngôn độc lập trước đây, cùng những bài hịch, lời bố cáo của ông cha, nhằm nhấn mạnh hơn nữa quyền làm chủ đất nước của nhân dân và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước mới giành lại được qua cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh anh dũng của toàn dân: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 cũng viện dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789, để khẳng định những lẽ phải không ai chối cãi được. Đó là “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà dấu mốc là Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là sự khẳng định và củng cố thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên này, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam không thực hiện ngay việc xây dựng nền chuyên chính vô sản mà tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chiến lược giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về điều này, Đảng ta đã xác định, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bước đầu thành công trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhưng cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong, giai cấp vô sản phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
Ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Cách tổ chức các ủy ban nhân dân” theo nguyên tắc: “Việt Minh hay ngoài Việt Minh, ai cũng có quyền ứng cử hay bầu cử người vào các ủy ban này”. Người cũng khẳng định, Chính phủ là công bộc của dân. Các công việc của Chính phủ là phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu cầu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi dân lên trên hết. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật rõ ràng: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế đất nước có nhiều khó khăn vì thù trong, giặc ngoài, Đảng ta vẫn tập trung quan tâm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, đồng thời với việc giải quyết những “nhiệm vụ cấp bách”: đánh bại “giặc đói”, “giặc dốt”, giặc ngoại xâm. Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân được tiến hành trên nhiều mặt, nhằm giữ vững và phát triển những thành quả đã giành được trong cách mạng. Việc tổ chức Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6-1-1946), thông qua Hiến pháp đầu tiên đã củng cố, hợp pháp hóa chính quyền cách mạng. Một chính quyền thực sự do nhân dân làm chủ, nhân dân được tham gia chính quyền, tham gia thảo luận, quyết định mọi công việc trọng yếu của quốc gia, bầu ra các đại biểu của bộ máy Nhà nước...
Việc xây dựng bộ máy chính quyền, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân là một nhân tố quan trọng đưa tới những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua các giai đoạn lịch sử từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay. Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chuyển dần lên xây dựng Nhà nước XHCN, thể hiện mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN theo con đường mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Thực tiễn chỉ rõ rằng, chỉ có cách mạng vô sản mới thực sự giải phóng dân tộc và chỉ có xây dựng CNXH mới đảm bảo vững chắc công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau 74 năm, kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân tiến lên CNXH chứng tỏ, nhân dân Việt Nam đã thực hiện điều mà Tuyên ngôn độc lập khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”. Thực tiễn cũng chứng tỏ rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta vừa giữ vững độc lập, tự do vừa phấn đấu thực hiện từng bước mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà nước ta ngày càng được củng cố và đổi mới, đạt những tiến bộ rõ rệt trong quản lý đất nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: hành pháp, tư pháp, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, đối nội và đối ngoại; đã thể hiện rõ và phổ biến nhất các nội dung cơ bản của chế độ dân chủ XHCN, từ các quyền dân chủ trực tiếp của công dân trong kinh tế, đời sống, quyền bầu cử, ứng cử, giám sát... đến những tiến bộ về cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát...
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, chúng ta không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Đó là bệnh quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hủ hóa của một số cán bộ, đảng viên. Thử thách lớn nhất hiện nay đối với Đảng, Nhà nước ta là phải ra sức khắc phục những yếu kém, sai sót và đẩy lùi từng bước những tệ nạn ngay trong cơ quan Nhà nước. Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, chúng ta cần đấu tranh quyết liệt với những “khuyết tật” này. Đây là điều cấp thiết và cần thiết để làm vững mạnh và trong sạch bộ máy Nhà nước của chúng ta, một Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ấp ủ và xây dựng.