Từ lý trí và tình cảm của con người nói chung, người Việt đã vận dụng vào những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm.
Theo nhận định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, truyền thống quân sự Việt Nam có hai nét đặc sắc là “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” và “chiến tranh nhân dân”. Hai nét đặc sắc đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nét đặc sắc thứ nhất phản ánh tương quan lực lượng thường xuyên chênh lệch giữa dân tộc ta với quân xâm lược nhưng người Việt phải “lấy nhỏ thắng lớn” thì mới bảo vệ được độc lập, tự do. Và để chiến thắng, nét đặc sắc thứ hai, phải có một phương pháp thích hợp và hiệu quả là “chiến tranh nhân dân”.
Để tiến hành chiến tranh, phải có phương tiện và phương pháp. Hai nhân tố thường xuyên dẫn đến thắng lợi trên các lĩnh vực đó là tính trí tuệ và tính nhân văn.
Phương tiện tiến hành chiến tranh là tổ chức quân sự và binh khí-kỹ thuật.
Về tổ chức quân sự, trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bao giờ Quân đội ta cũng ít hơn lực lượng quân xâm lược, cho nên chỉ riêng quân đội thì không đủ sức đánh thắng mà bên cạnh đó nhất thiết phải có thêm lực lượng nhân dân. Từ lực lượng tổng hợp đó, dân tộc ta đã tổ chức thành ba thứ quân: Quân chủ lực của nhà nước, cơ động trên toàn lãnh thổ; quân địa phương chiến đấu từ tỉnh, lộ đến châu, huyện, làm nòng cột cho lực lượng quần chúng vũ trang chiến đấu ở làng, xã. Ba thứ quân là một hình thức tổ chức quân sự rất độc đáo, chưa hề có ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

Từ thời dựng nước, Quân đội ta đã có nỏ Liên Châu, có thuyền chiến Mông Đồng. Đến thời điểm vũ khí "nóng" xuất hiện, khi đại bác còn là vũ khí phòng ngự tại các thành lũy, dân tộc ta đã biết lắp loại hỏa khí này vào thuyền chiến và đã bắn chết Chế Bồng Nga-vua Chiêm Thành-tại ngã ba sông Luộc. Sau đó, thần cơ thương pháo đã được Hồ Nguyên Trừng cải tiến, trang bị cho bộ binh làm vũ khí tiến công. Xâm chiếm được Việt Nam, triều đình nhà Minh đã trang bị loại vũ khí này cho quân đội của họ. Không những thế, một số loại vũ khí "nóng" khác như súng trường, hỏa hổ, voi-pháo (đại bác đặt trên lưng voi) còn được trang bị cho quân đội Tây Sơn.
Đến thời hiện đại, bước vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhất là khi tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, do điều kiện binh khí-kỹ thuật tối tân, hiện đại của quân xâm lược, nên lúc bấy giờ vũ khí được xem là một vấn đề rất quan trọng và được đặt ra một cách nghiêm túc với ba phương châm: Lấy vũ khí địch-đánh địch, tự chế tạo và nhờ vào sự viện trợ.
Lấy vũ khí địch-đánh địch là hành động của bộ đội ta trong chiến đấu, đồng thời là một biện pháp quan trọng, bảo đảm cho chiến thắng. Nếu ở những trận đánh vào Phai Khắt, Nà Ngần năm 1944, Quân đội ta chỉ thu được vẻn vẹn mấy chục khẩu súng trường, súng ngắn thì đến Đại thắng mùa Xuân 1975, Quân đội ta đã thu được hàng ngàn, hàng vạn tấn chiến lợi phẩm, bao gồm mọi loại vũ khí và phương tiện chiến tranh.
Tự chế tạo vũ khí là sự kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Để có đủ vũ khí đánh giặc, trong 30 năm chiến tranh giải phóng vừa qua, quân và dân ta đã tự tạo ra các loại vũ khí từ nhiều nguồn và hình thành những loại vũ khí rất độc đáo như: Hầm chông, súng ngựa trời, ong vò vẽ, bẫy nổ chống trực thăng, giàn thun bắn lựu đạn…
Do nền kinh tế nông nghiệp, dân tộc ta chưa chế tạo được nhiều loại vũ khí hiện đại, nhưng khi được sự viện trợ thì việc sử dụng lại có rất nhiều sáng tạo như súng tiểu liên AK-47, một số loại pháo mang vác như A-12, ĐKB, các loại súng chống tăng B40, B41 và đặc biệt là tên lửa phòng không SAM-2.
Không chỉ sử dụng sáng tạo phương tiện tiến hành chiến tranh mà người Việt còn có nhiều đóng góp đáng kể vào phương pháp tiến hành chiến tranh, vào nghệ thuật quân sự. Sự vận dụng những hiểu biết đó một cách nhuần nhuyễn, thành thục đối với từng đối tượng tác chiến, trong từng cuộc chiến tranh cụ thể, với những kiểu cách khác biệt chứng tỏ người Việt có một trí tuệ quân sự khôn ngoan, sắc sảo.
Chẳng hạn như, từ 5 đặc trưng của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước (tính cộng đồng, tính ưa hài hòa, tính trọng âm, tính tổng hợp và tính linh hoạt), người Việt đã biết khai thác tối đa tính tổng hợp và tính linh hoạt vào trong văn hóa giữ nước, bắt đầu ngay từ những nguyên tắc và phương châm của nghệ thuật quân sự.
Từ những trí tuệ quân sự của chiến tranh nói chung đã tiếp thu được, như phải “biết địch, biết ta” (tri bỉ, tri kỷ), “trong chiến tranh, phải biết dối trá” (binh giả, ngụy đạo dã), trong tác chiến phải dùng “chính binh xuất kích” (dĩ chính hợp) nhưng lại dùng “kỳ binh chiến thắng” (dĩ kỳ thắng), trong tiến công phải biết “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” (tị thực, kích hư), phải biết “lấy nhàn đợi nhọc” (dĩ dật đãi lao), ở mọi nơi, mọi lúc, phải triệt để phát huy tính bất ngờ… nhưng trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, người Việt Nam lại có phương pháp tư duy riêng của mình.
Trong Binh pháp “Thập tam thiên”, Tôn Tử cho rằng: “Trong phương pháp dùng binh (…), gấp năm lần địch thì tiến công, gấp hai lần địch thì chia cắt (để đánh từng bộ phận), có binh lực ngang địch thì có thể chống cự, binh lực ít hơn địch thì nên tránh xa nó (…). Bởi vì một quân đội nhỏ yếu mà vẫn liều lĩnh, cố đánh, sẽ bị kẻ địch lớn mạnh bắt làm tù binh”.
Thế nhưng người Việt Nam lại cho rằng, tiến công là một tư tưởng chiến lược, cho nên trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào vẫn có thể tiến công được. Quan niệm tiến công của Tôn Tử là dùng quân chủ lực công kích vào chính diện đội hình đối phương, còn chiến tranh nhân dân thì không nhất thiết phải như vậy. Với cách đánh nhỏ lẻ, không có bài bản, quân và dân ta vẫn có thể linh hoạt công kích vào sau lưng, vào hai cạnh sườn đội hình địch, có thể tiến công vào ban đêm, vào lúc quân địch đang nghỉ ngơi, không cầm vũ khí… có nghĩa là tiến công vào những thời gian, không gian địch sơ hở nhất, không hề lường trước để chuẩn bị chống đối.
Cũng Binh pháp “Thập tam thiên” cho rằng: “Việc dùng binh tác chiến chỉ nghe nói đến đánh ào ạt để thắng nhanh chứ chưa từng nghe nói đến việc khéo léo kéo dài để giành thắng lợi. Chiến tranh lâu dài mà có lợi cho quốc gia là việc xưa nay chưa từng có”.
(còn nữa)
DƯƠNG XUÂN ĐỐNG (Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự)