Từ Đoàn 22, Quân khu 4, anh được bổ sung cho Trung đoàn bộ binh 271, đóng quân tại huyện Bố Trạch (Quảng Bình), chuẩn bị tăng cường cho Mặt trận B2, làm nhiệm vụ thọc sâu, đánh địch tại cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn.
Đất nước thống nhất, anh tiếp tục học hết cấp ba và thi vào Khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh.
Ra trường với tấm bằng loại ưu, sau hơn 20 năm mái tóc nhuốm đầy bụi phấn, anh vẫn không nguôi ấp ủ niềm ao ước, ghi lại kỷ niệm của những năm tháng chiến đấu đầy hy sinh gian khổ, để tri ân đồng đội, tri ân mảnh đất, con người ở những miền quê mà anh đã đi qua, đã sống và chiến đấu: “Xin được gửi đến bạn bè, đồng chí, đồng đội, cùng những người thân của mình. Xin được gửi đến bà con cô bác ở Hương Sơn (Hà Tĩnh), Bố Trạch (Quảng Bình), cùng những địa danh Thiện Ngôn, Sa Mát, Trảng Bàng, Gò Dầu… (Tây Ninh), hay Kiến Tường, Mỹ Tho, Đồng Tháp… đặc biệt là Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa, Tân Trụ… (Long An), cũng như bất cứ vùng đất nào trên đất nước Triệu Voi hay Chùa Tháp - nơi tôi đã đến và chiến đấu - những tình cảm thân thương, sâu nặng… Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh những người đã ngã xuống cho Đất Nước nở hoa độc lập, kết trái tự do” (TỰA).
Niềm ao ước, trở trăn ấy của anh còn giúp lưu giữ trong tâm hồn tuổi trẻ hôm nay, những ký ức bi tráng về một thời oanh liệt, hào hùng, mà những người ông, bà, cha, mẹ, anh, chị… của họ đã trải qua. Giúp họ trân trọng quá khứ, nuôi khát vọng và hoài bão cao đẹp, được đưa tài trí của mình phục vụ xã hội.
Vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, Vương Khả Sơn khởi viết “Ký ức chiến tranh”. Anh ấp ủ điều này từ những ngày đầu bước vào quân ngũ, nên ngày 11/11/1971, khi tạm biệt đất lửa Quảng Bình tại xã Cự Nẫm (Bố Trạch), hành quân lật cánh sang mé Tây Trường Sơn, trên đất bạn Lào và Campuchia để vào chiến trường, anh bắt đầu ghi chép mọi diễn biến vào hai cuốn Nhật ký “Dọc đường chiến tranh”. Không may, trước ngày giải phóng Sài Gòn, một quả đạn pháo 105 ly của địch đã biến “khối tài sản” ấy của anh thành tro bụi. Biết bao tên tuổi, địa chỉ của từng đồng đội; diễn biến của từng sự kiện dọc đường hành quân, trên chiến trường và mỗi trận đánh… được anh ghi chép tỉ mỉ đã bị quả đạn thiêu rụi. Tuột mất cẩm nang, cộng thêm khoảng thời gian 30 năm đã kéo tất cả lùi vào quá khứ. Chỉ nhờ vào độ nhớ hiếm có, niềm khắc khoải khôn nguôi với đồng đội và thân nhân của họ, mà anh đã quyết tâm hoàn thành bản thảo trong vòng 5 tháng.
Ngoài phần TỰA, cuốn sách được chia làm 4 phần chính, gồm: “Nhập ngũ”, “Về trung đoàn”, “Xẻ dọc Trường Sơn”, “Vào trận”; Phần cuối là “Vĩ thanh”. Như anh từng tâm sự: “Tôi không hề có ý định đem những trang viết này đăng tải trên báo, tạp chí hoặc đến một nhà xuất bản nào đó để in thành sách”. Anh photocopy rồi gửi đến bạn bè, đồng đội và thân nhân của họ. Tuy nhiên, dư luận thấy rằng, “Ký ức chiến tranh” vừa có giá trị lịch sử, vừa chứa nhiều ý nghĩa nhân văn và giá trị văn học. Tháng 4/2006 “Ký ức chiến tranh” được Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành, được Trung ương Đoàn đưa vào “Tủ sách tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi hai mươi”. Từ đây, cuốn sách đã cuốn hút người đọc từ những dòng đầu tiên, đến trang viết cuối cùng, lan tỏa hiệu ứng xã hội rộng lớn, được độc giả hào hứng đón nhận. Đặc biệt, “Ký ức chiến tranh” đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trao giải Nhất, Giải thưởng Văn học nghệ thuật Nguyễn Du năm 2005-2010.
Với độ dài hơn 260 trang, “Ký ức chiến tranh” như một cuốn phim tư liệu lịch sử, ghi lại thời gian 4 năm, từ lúc lên đường nhập ngũ, đến ngày đất nước hoàn toàn thống nhất 30/4/1975. Những kỷ niệm và sự kiện được viết theo lối đồng hiện, đan xen, ở nhiều thời điểm khác nhau. Những ngày tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, được hồi ức hết sức sinh động, bằng những tình huống chiến trường vô cùng cam go, đưa độc giả trở về quá khứ, giúp họ cảm nhận không khí nóng bỏng của cuộc kháng chiến, cảm nhận được những hiểm nguy, gian khổ, hy sinh mà những người lính từng ngày phải đối mặt: “Chúng ta có thể hình dung mức độ ác liệt của chiến trường: Cứ 100 xe vận tải xuất phát từ Quảng Bình vào tới đây hoặc sâu hơn chút nữa, may ra chỉ còn lại vài chiếc” (Xẻ dọc Trường Sơn). Hay một tình huống đau thương khác: “Chúng tôi khẩn trương rút nhanh ra khỏi tọa độ B.52... Chỉ còn tiểu đoàn 7 vừa quàng ba lô lên vai, chưa kịp bước đi thì mưa bom đã trút xuống. Biển lửa trùm lên toàn bộ đội hình… Kẻ địch tàn bạo đã dùng cả phi vụ ấy chỉ với hai loại vũ khí giết người hàng loạt là bom bi và bom khai quang… Đó là đêm 19-02-1972” (Xẻ dọc Trường Sơn). Để có con số chính xác, anh đã tìm đến Quân lực Trung đoàn và được biết, trong hành quân và chiến đấu “Trung đoàn chúng tôi vẻn vẹn còn chưa đầy 300 người, trên tổng số hơn 2.600 người lúc bắt đầu vượt Trường Sơn” (Vào trận). Bằng lối kể chân thực, có phần dí dỏm, ngôn ngữ trong sáng… anh đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn tình cảm cách mạng của người dân vùng bị địch tạm chiếm:“Ở An Thuận, có nhiều cơ sở kiên trung, một lòng theo Đảng, theo cách mạng như gia đình chị Tư Lập, Út Mắc, Lệ Thủy… riêng tôi thực sự có cảm tình với Lệ Thủy. Đó là một cô gái mới học lớp 12, xinh đẹp mà đôn hậu, hết lòng vì mọi người… Những ngày chúng tôi chống càn ở đây, ban ngày em phải theo gia đình đi tản cư. Khoảng 5 giờ chiều, khi bọn lính đã rút hết nhưng pháo vẫn còn bắn đến. Vậy mà em vẫn đội pháo về tiếp tế cho chúng tôi, lần nào cũng một làn nhựa với đủ bánh ngọt, trái cây, nhu yếu phẩm”. Lòng đầy ái ngại, anh nói thật ý nghĩ của mình, Lệ Thủy hờn dỗi: “Sao anh Hai nói vậy? Sự hy sinh xương máu của mấy anh còn không tiếc, thì sự giúp đỡ chút xíu của em có ăn nhằm gì!”. Tới đây Vương Khả Sơn “bật mí”: “Không phải ngẫu nhiên sau này, khi vợ chồng tôi có con gái đầu lòng, tôi đặt tên cháu là Lệ Thủy… Hình ảnh Lệ Thủy của ấp An Thuận năm nào vẫn vẹn nguyên và để lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm” (Vào trận). Tinh thần một lòng theo cách mạng còn thể hiện ở chỗ “họ đi làm đồng, chủ yếu để có cớ ra ngoài tiếp tế cho bộ đội”. Xúc động biết bao, chỉ một chi tiết như vậy, đủ cho ta thấy tấm lòng son sắt của người dân, dù phải sống trong áp bức, kìm kẹp của địch, họ vẫn một niềm tin vào thắng lợi của cách mạng.
Trực tiếp cầm súng, chiến đấu trên chiến trường, người lính đã bao lần chứng kiến sự hy sinh của đồng đội, của những em gái giao liên, những du kích địa phương phối thuộc. Dĩ nhiên, lòng căm thù giặc trong họ có ngữ ngôn nào tả hết, song khi kẻ địch đã rơi vào thế “ngã ngựa”, thì tình đồng loại đã kêu gọi anh. Trong trường hợp này, anh vừa băng bó, cấp cứu và tha mạng sống cho một Thiếu úy, Đại đội phó Thủy quân lục chiến ngụy: “Vượt lên khoảng hai mươi mét nữa, bất chợt tôi thấy một tên nằm sấp, cựa quậy. Hai tay hắn nắm chặt lấy hai búi cỏ bàng, máu chảy đỏ cả một vùng nước… Tôi cúi xuống, nắm một cánh tay của hắn kéo lật ngửa. Hắn dính một viên AK hay trung liên gì đó. Viên đạn xuyên từ sau bả vai phải, trổ ra trước ngực, chếch lên gần xương đòn. Bọt máu sủi ra. Chắc bị thủng phổi. Mất nhiều máu. Mặt tái mét… Tôi giật vội hai cuộn băng cá nhân bên dây lưng của mình xé ra, nối lại rồi thò tay cởi cúc áo cho hắn để băng… Mấy hôm sau, chúng tôi được cơ sở báo tin, tụi lính kể cho nhau nghe: “Ông Hoành thật lớn phước, bị thương nặng nhưng đã được một ông Việt Cộng nào đó băng bó cho rồi tha mạng”. Tôi chỉ cười thầm” (Vào trận).
Đáp ứng nhu cầu của độc giả, nhất là với các đồng đội, những người lính từng chiến đấu tại Mặt trận B2; những thân nhân, gia đình có con em là liệt sỹ đang nằm lại ở đâu đó trên khắp các chiến trường; các thư viện trường học trên cả nước, “Ký ức chiến tranh” được nối bản, tái bản nhiều lần. Đến tháng 4/2013, cuốn sách được in lần thứ 5, đưa tổng số lên hơn 5 vạn cuốn - Một kỷ lục về xuất bản. Lần tái bản này, tác giả có bổ sung phần “Dư luận bạn đọc”, gồm các bài viết của các nhà báo, nhà văn, đồng đội, thân nhân các liệt sỹ và nhiều độc giả trong và ngoài nước bày tỏ quý mến, ngưỡng mộ anh. Từ bấy đến nay, anh đã được các cơ quan hành chính sự nghiệp, trường học, doanh nghiệp và đơn vị quân đội thuộc các tỉnh, thành trong cả nước mời giao lưu trên 40 buổi, nhân các sự kiện quan trọng của đất nước, của địa phương, đơn vị, nhất là vào dịp tháng Tư hàng năm. Ngoài ra, còn có hơn một nghìn bức thư tay, hàng chục vạn tin nhắn gửi đến tác giả, nêu cảm nhận về cuốn sách, thể hiện lòng tri ân các thế hệ cha anh đã chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc và cuộc sống hôm nay.
Với “Ký ức chiến tranh”, bạn đọc có thể tìm thấy hơi hướm của mình, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị mình qua những năm tháng máu lửa, để “sống tốt hơn với quá khứ vẻ vang ấy”, như anh đã viết trong lời tựa cuốn sách... Cũng như trong “Vĩ thanh” anh tâm sự: “Kỷ niệm về những năm tháng binh lửa, trận mạc cùng những gương mặt thân yêu của đồng đội vẫn vẹn nguyên trong tiềm thức, trở thành lớp trầm tích dưới vỏ não của tôi”.
Chiến tranh đã lùi xa 48 năm, đất nước ta đang từng ngày đổi mới, có vị thế xứng đáng trong tiến trình hội nhập. Song những mất mát, đau thương do chiến tranh mãi mãi còn in sâu cùng năm tháng; những con người quả cảm trong khói lửa mãi mãi trở thành bất tử. Những tác phẩm tiêu biểu về đề tài này, cũng sẽ mãi mãi đồng hành trong dòng chảy của thi ca và văn học hiện đại, trong đó có “Ký ức chiến tranh” của Vương Khả Sơn, lớp trầm tích chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, hiện thực hóa cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đầy bi tráng của dân tộc ta.