Thoát ly theo cách mạng năm 1964, lúc đó tôi mới 18 tuổi. Năm 19 tuổi (1965) mẹ bắt về lấy chồng, lần này tôi thoát ly biền biệt không để lại tin tức cho gia đình. Vào căn cứ gia nhập đoàn y 4 của Sài Gòn - Gia Định thuộc cánh nam - chiến trường Nhơn Trạch, Đồng Nai. Tháng 7/1967, điều về đơn vị Biệt động cánh Nam quận Thủ Đức sau này là Phân khu 4, Sài Gòn Gia Định, phục vụ Bộ Chỉ huy quân sự và liên tục đi công tác nội đô. Năm 1968, vào cuối đợt 2, trên đường đi công tác về nội thành lúc này do trời quá tối, chẳng may tôi bị lọt vào ổ phục kích và bị giặc bắt trên cánh đồng bưng Long Thành.
Cô Sáu thời trẻ
Địch giải hai tôi về bót Long Thành. Mấy ngày liền bị địch đánh đập rất dã man. Tôi cố chịu đựng. Khi nghe bọn giặc kháo nhau: “Con này cái mặt giống con bà ở Biên Hòa, nó bị khùng”. Tôi bảo chị đó: “Nó cho khùng là dịp tốt cứ nhận”. Bị giặc giam 4 ngày 3 đêm, không khai thác được gì, liền thả chúng tôi về Sài Gòn. Tôi bảo đồng chí nữ đó về lại vị trí cũ để có dịp tôi tới rước. Vì nơi đây là cơ sở của dòng họ tôi bảo bọc.
Thời điểm này chiến tranh rất ác liệt, không ai có thể vào được bên trong nội đô để đưa tôi ra căn cứ. Tôi được cơ sở nuôi heo là bà con dòng họ của tôi thêm 4 ngày 3 đêm. Cuối cùng, đơn vị biệt động đưa tôi và chị đó vào căn cứ. Về tới đơn vị Biệt động Thành, mọi người rất vui mừng ai ai cũng bảo: “Tưởng con Sáu nó chết vì không chịu nổi trận đòn roi, tra tấn dã man của địch, các anh chuẩn bị một đại đội tăng cường để vác em ra”. Khi nghe điều này, tôi rất xúc động, tủi thân và khóc bên vai đồng đội cho thỏa. Trong đêm đó, các anh đưa tôi qua Bộ Chỉ huy tiền phương. Lúc này Bộ Chỉ huy đang họp để bàn kế hoạch tác chiến. Một người trong đoàn reo lên: “Các anh ơi, nó đã về tới rồi!”. Các Thủ trưởng Bộ Chỉ huy đến ôm tôi và tung người tôi lên trong niềm vui mừng thắm thiết. Tôi rất xúc động và hạnh phúc, vì mình luôn giữ vững ý chí lập trường, một lòng trung trinh với Đảng với cách mạng, bảo toàn cơ sở, bảo toàn lực lượng.
Sau phút sum vầy cùng đồng đội, đồng chí Thủ trưởng nhìn tôi và trìu mến bảo: “Em đã lộ rồi, nên phải về chiến khu”.
Về chiến khu, biên chế vào Phân khu 4, tôi được phân bổ về phòng Chính trị Phân khu 4 và cử đi học khóa Quân sự khóa 2 miền Nam. Lúc này, tôi đã chuẩn bị chu đáo tiền bạc, súng đạn để lên đường đi học. Bất ngờ Thủ trưởng phòng Chính trị Phân khu 4 giữ lại và cho tôi đi học ngành y để nghi trang trong nghiệp vụ tác chiến đô thành. Học 6 tháng ngành y, một lớp trên 30 người, tôi được vinh dự giữ lại biên chế vào đội phẫu bệnh viện tiền phương.
Tháng 12/1968, Thủ trưởng đơn vị phòng Chính trị bắt về nhưng bệnh viện giữ lại vì lúc này đang rất cần cho việc chuẩn bị tổng tiến công nội đô. Ở bệnh viện được mấy tháng thì đơn vị cử người đến đưa tôi về công tác biệt động đặc biệt của cánh Nam. Vào ra nội thành mấy chuyến đều trót lọt. Được Bộ Chỉ huy tin tưởng tuyệt đối, tôi càng tích cực phấn đấu nhiều hơn nữa, gan dạ và mưu trí, cũng một phần do quá căm ghét chiến tranh. Lòng tôi luôn khao khát cùng đồng đội chiến đấu cho đến ngày hòa bình trọn vẹn.
Năm 1969 tôi vừa tròn 23 tuổi, thời kỳ này đơn vị đang gặp rất nhiều khó khăn, thấy anh chị em khổ quá, đói quá! Tôi xung phong đi tải gạo, nhưng Chính ủy Phòng Chính trị không cho tôi đi, bảo khi nào thật yên tĩnh và cho trinh sát ra vùng ven thì mới cho đi công tác. Tôi nói: “Cứ cho tôi đi, các anh chết thì tôi chết, không việc gì phải lo ngại”. Cuối cùng, tôi cũng được Ban Chỉ huy chấp nhận cho đi tải lương thực. Khi đến cơ sở và cõng được gạo trở về. Lúc này các anh bảo tôi ở lại chờ, còn các anh đi vào sâu hơn. Tôi chấp hành mệnh lệnh chờ… Không may, trong chuyến đi này đoàn chúng tôi bị lọt vào vòng vây của địch. Trên không máy bay quần, dưới mặt đất địch càn súng ống lăm lăm. Ba bên, bốn bề không tài nào thoát được. Tôi đã bị bắt với một người nữ, cả hai cũng không biết tên nên rất may cho tôi. Địch giải hai người về Biên Hòa, trên đường bụng nghĩ “nếu lỡ địch đưa về Sài Gòn lộ mặt nhất định sẽ chết!”. Gần đó tôi thấy có người của cơ sở đang dắt bò, tôi nhìn chiếc còng trên tay của tôi hơi lỏng, tôi định nhảy xe tự tử để bảo toàn bí mật cơ sở cách mạng, nếu có chết thì thế nào cũng tin về cho đơn vị biết. Nhưng khi tôi rút tay nhảy thì bị cản bởi tay của chị nữ đi cùng. Chúng tôi bị đưa vào phòng Nhì Biên Hòa, bị chúng tra khảo, đánh đập rất dã man, mỗi lần hỏi, mỗi lần thay phương pháp, dụng cụ tra tấn. Chúng đánh dập nát hai bàn tay tôi. Hỏi: “Mày ở đơn vị nào?”. Tôi chỉ một mực trả lời, tôi không biết, mấy ông ở đó bắt tôi đi dân công thì tôi đi, tôi không biết ai hết, cũng không nhớ đó là ở đâu!”. Gần một tháng tôi bị tra khảo, đánh đập nhưng do nhanh trí trả lời, cuối cùng bọn giặc không khai thác được gì, nên chúng đưa tôi về Quân đoàn 3 và đưa về tù binh Hố Nai.
Tại Hố Nai, chúng nhốt tôi chung một phòng với bọn chiêu hồi. Mỗi sáng, tôi và bạn tù đi gánh nước về tắm rửa, chăm sóc thương binh, người già. Bị bọn chiêu hồi sinh sự với tôi và thương binh. Tôi không sợ và trả lời lại: “Tôi đi gánh nước về tắm giặt cho thương binh, nếu mấy người biết điều thì tôi còn cho xài”. Bọn chiêu hồi báo lên giám thị, giám thị gọi tôi ra đánh dằn mặt. Tôi trả lời: “Khiêng nước về cho thương binh và mấy chị là xấu, là có tội sao? Mỗi ngày phải đấu tranh trực diện với chiêu hồi, trong đầu tôi lúc nào cũng đề cao cảnh giác, nghĩ ra những tình huống đấu tranh, không tài nào yên giấc. Hơn một tháng, chúng giải tôi và một số người đi nhà lao Quy Nhơn. Trước khi đi chị em tôi được mấy anh tù binh nam vứt mẩu giấy báo rằng “Đợt này ra sẽ bị vào trại chiêu hồi, trong đoàn chuẩn bị”. Đoàn tù binh của tôi có một dì 40 tuổi quê Tây Ninh. Chúng tôi bàn bạc và phân công dì dẫn đầu đoàn bạn tù đoàn kết đấu tranh để làm sao phải về được Trại 2 đó là tù binh chính thống.
Từ Hố Nai Biên Hòa bị giải về Quy Nhơn đã 3 giờ chiều. Ai cũng mỏi mệt. Đúng 7 giờ sáng hôm sau, đoàn tù tập hợp trước phòng giám thị để đấu tranh qua Trại 2, cách phòng giám thị khoảng 30 - 40m, nhưng trong đoàn không ai bước lên phía trước. Tôi nghĩ rằng, nếu để thằng giặc phát hiện nó đập tan phong trào thì không cơ hội nữa. Lúc này, tôi bước ra khỏi hàng khoảng 3-4 bước thì cả đoàn người bước theo, dì đó không bước mà cứ chựng lại. Tôi thấy tình hình như vậy và tiến lên phía trước rồi cả đoàn người kéo lên mạnh mẽ hơn. Giặc đánh tôi liệt cả hai tay và đưa chị em trong đoàn biệt giam. Mỗi sáng chúng lùa chị em chúng tôi đi phơi nắng. Cuối cùng tôi cũng tìm cách móc nối được tù binh Trại 2. Hơn 2 tháng, tôi chui qua gầm nhà tắm để gặp gỡ, trao đổi rút kinh nghiệm đấu tranh. Được các chị động viên tinh thần, tôi cảm thấy ấm lòng và như được tiếp thêm sức mạnh. Mặc dù bị biệt giam đói, khát, bị đánh đập rất đau đớn thể xác, tinh thần, nhưng chị em bạn tù rất vững ý chí. Tuy nhiên cũng không ngoại lệ, có người không chịu nổi đòn roi đã chiêu hồi. Sống chung với những đối tượng đó, càng căng thẳng và hết sức khôn khéo, cảnh giác. Cuối cùng, đấu tranh thắng lợi buộc bọn giặc phải đưa chị em qua Trại 2.
Tháng 10/1972, chiến trường miền Nam càng khốc liệt hơn, tù binh phải qua rất nhiều giai đoạn khổ cực và nhiều đồng chí đã hy sinh. Trong tù, chúng tôi luôn động viên nhau, cùng nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh, buộc giặc phải thực hiện chế độ tù binh cho đúng luật quốc tế. Chiến trường miền Trung bên ngoài đánh mạnh, chúng đưa chị em cả trại về tù binh Cần Thơ.
Ngày 15/2/1973, chúng tôi được trao trả tù binh. Khi về tới sân bay Bình Thủy, Cần Thơ thấy phái đoàn 4 bên của ta, trong lòng mừng rơi nước mắt nhưng không dám bộc lộ, sợ bọn giặc tráo trở, nên ai ai cũng đề cao cảnh giác. Chúng tôi vẫn mặc nguyên đồ tù binh màu nâu với hai chữ “tù binh”. Đoàn tù binh chúng tôi được giải tới sân bay Lộc Ninh. Gặp Quân Giải phóng, cả đoàn vỡ òa xúc động không nói nên lời. Mất liên lạc đã lâu, đơn vị của tôi cứ ngỡ tôi đã chết, nên báo tử về cho gia đình.
Những ngày sau đó, chúng tôi được nghỉ ngơi và thường gặp cô Ba Định (Anh hùng Lực lượng vũ trang - Nữ tướng Nguyễn Thị Định), được nghe cô hướng dẫn và thông báo về tình hình chiến sự miền Nam, chúng tôi rất háo hức muốn bay về ngay chiến trường để tác chiến. Khi biết tin tôi còn sống, đơn vị cử người đến đón về Phòng Chính trị Quân khu biên chế A6 của đội Biệt động chiến trường phía Nam. Tôi ở Đội 1 cánh Nam Thủ Đức, cùng năm 1974 đội chúng tôi xuống đường ém quân chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong chiến dịch Mùa Xuân 1975.
Cô Sáu bên đồng đội
Thượng tá Phan Thị Bé, nữ biệt động thành
Nhắc đến chuyện riêng tư, cô Sáu nhìn vào khoảng không xa xăm, im lặng. Cô lắc đầu và lau nước mắt không ngừng. Bởi đã quá muộn màng, khi cuộc chiến tranh còn đang diễn ra thì mải lo việc nước. Cô ý thức sẽ không hạnh phúc khi quê hương chìm trong khói lửa, biết bao thân phận gánh nặng chồng con mà dang dở một đời. Thảm họa chiến tranh kinh hoàng hàng ngày diễn ra, biết bao cảnh sinh ly tử biệt.
Đến ngày hòa bình thống nhất, tưởng rằng mình sẽ sanh được đứa con khỏe mạnh, nhưng rồi chỉ vài ba tháng mang thai, đứa con chưa đủ hình hài đã từ biệt mẹ mà đi… Cô Sáu bị nhiễm chất độc hóa học! Nỗi đau thương mất mát từ hậu quả chiến tranh để lại không nói thành lời.