Quy hoạch điện lực quốc gia đến năm 2030 (Quy hoạch điện 8) được phê duyệt vào tháng 5/2023 với mục tiêu chuyển đổi năng lượng, phát triển hệ sinh thái năng lượng tái tạo và xuất nhập khẩu điện.
Mới đây, Bộ Công Thương có công văn gửi các bộ ngành, tập đoàn năng lượng nhà nước và các đơn vị liên quan đề nghị tham gia ý kiến với dự thảo báo cáo Thủ tướng về chủ trương điều chỉnh Quy hoạch điện 8.
Bộ Công Thương đề xuất nghiên cứu, điều chỉnh Quy hoạch điện 8
Lý giải nguyên nhân, theo Bộ Công Thương, việc cung ứng điện trong các năm 2025-2030 hết sức khó khăn, tiềm ẩn nguy cơ thiếu hụt công suất đỉnh vào thời điểm mùa khô. Cùng với đó, các nguồn điện được phê duyệt không đáp ứng tiến độ theo kế hoạch, nguy cơ thiếu điện năng sử dụng trong tương lai.
Cụ thể, giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc dự kiến đạt 9,08%. Thực tế, 7 tháng đầu năm 2024, con số này tăng tới 13,7%, cao đáng kể so với giai đoạn 2021-2023 chỉ chưa tới 5%.
Như vậy, việc đạt tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm giai đoạn 2021-2025 là khó khả thi. Do đó, Bộ Công Thương cho rằng cần rà soát, cập nhật tình hình kinh tế - xã hội để chuẩn xác lại tình hình phát triển nhu cầu sử dụng điện, làm cơ sở phát triển nguồn, lưới điện giai đoạn tiếp theo.
Theo Bộ Công Thương, nhiều nguồn điện lớn (khí, than) khó đáp ứng tiến độ vận hành đến năm 2030. Nên việc điều chỉnh quy hoạch là cần thiết để thay thế các dự án chậm tiến độ, đảm bảo khả thi, khả năng cung ứng điện.
Chẳng hạn, Quy hoạch điện 8 phê duyệt 23 dự án điện khí với công suất 30.424 MW đến năm 2030. Tuy nhiên, mới có một nhà máy vào vận hành là nhiệt điện Ô Môn 1; một dự án đang xây dựng là nhà máy Nhơn Trạch 3 và 4 đạt tiến độ 92%, dự kiến vận hành vào tháng 5/2025. Các dự án còn lại đều đang ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Theo Bộ Công Thương đáng giá, ngoại trừ dự án Nhơn Trạch 3 và 4, các dự án còn lại khó hoàn thành trước năm 2030 nếu không có những giải pháp căn cơ, tháo gỡ nút thắt cho điện khí LNG.
Thực tế này dẫn tới nguy cơ thiếu hụt công suất nguồn điện lớn giai đoạn 2026-2030, tiềm ẩn rủi ro mất an ninh cung ứng điện, đặc biệt là miền Bắc. Vì vậy, cần thiết có giải pháp đẩy nhanh tiến độ dự án, thay thế các dự án có nguy cơ chậm tiến độ.
Với nguồn điện than, từ nay đến năm 2030 sẽ đưa vào vận hành 3.380 MW và sau đó sẽ không phát triển theo cam kết. Tuy nhiên, 5 dự án nhiệt điện than chậm tiến độ, gặp khó trong thay đổi cổ đông, thu xếp vốn, gồm Công Thanh (600 MW), Nam Định I (1.200 MW), Quảng Trị (1.320 MW), Vĩnh Tân III (1.980 MW) và Sông Hậu II (2.120 MW).
Với nguồn thủy điện, theo quy hoạch, tổng công suất đến năm 2030 là 29.346 MW, nhưng không thuận lợi vì dung lượng không còn nhiều, có thể gặp rủi ro khi phát triển.
Ngoài ra, với năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió cũng khó đạt được quy mô công suất theo quy hoạch đề ra. Bao gồm cả điện gió trên bờ và gần bờ là 21.880 MW và điện gió ngoài khơi là 6.000 MW. Các nguồn điện mặt trời cũng đang được rà soát, tổng hợp, đánh giá cho phù hợp thực tiễn.
Thúy Hà