Chỉ với hai bàn tay trắng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm về tổ chức và chỉ huy cũng như về cơ sở vật chất, kỹ thuật, ông cùng đồng đội, đội quân thơ ấu lao vào vòng xoáy cách mạng bằng những trận đánh mở đầu thắng lợi…
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông được giao trọng trách về an ninh - quốc phòng. Với cương vị là Chủ tịch Quân sự ủy viên Hội-Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Sau khi đất nước giành được chính quyền. Trước yêu cầu cấp bách của sự nghiệp giữ nước, ông cùng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phải vươn lên để đảm nhiệm việc chỉ huy các chi hội Nam tiến. Trải qua những tháng vừa chỉ đạo kháng chiến cục bộ ở miền Nam, vừa chuẩn bị đối mặt với quân viễn chinh Pháp trước khả năng chiến tranh mở rộng ra cả nước. Dưới quyền của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã tập hợp được một lực lượng thanh niên đầy nhiệt huyết lên tới 8 vạn người, nhưng trang bị còn rất thô sơ, cán bộ, chiến sĩ đều chưa có kinh nghiệm chiến đấu…
Qua cuộc kháng chiến lần thứ nhất 1946-1954 với cuộc đọ sức với thực dân Pháp. Quân đội cách mạng Việt Nam dường như chỉ là số 0. Vấn đề đặt ra là: vì sao trong bối cảnh như vậy, một đội quân cách mạng chưa đầy “tuổi đời” dưới quyển chỉ huy của thầy giáo dạy sử, chưa qua lớp đào tạo quân sự nào lại có thể đứng vững trước một đội quân viễn chinh nhà nghề trang bị hiện đại, để rồi từ yếu đến mạnh, từ nhỏ đến lớn và cuối cùng kết thúc bằng một “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”.
Sau 30 năm chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tổng kết lại Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh bại 7 tướng Pháp và 3 tướng Mỹ thuộc loại sừng sỏ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Đặc biệt có tên Đại tá Pilốt, Tư lệnh pháo binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ huyênh hoang tuyên bố: “Điện Biên Phủ bất khả xâm phạm” khi pháo binh tiến công, tên này phải tử tự tại Điện Biên Phủ.
Về mặt tư tưởng Võ Nguyên Giáp luôn coi trọng chính trị làm gốc và đi trước quân sự nên trong quá trình vận động chính trị ông luôn luôn dựa vào nhân dân, chiến đấu vì nhân dân như Bác Hồ đã dạy “Dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì không kẻ thù nào có thể tiêu diệt được”. Thành công của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong hơn 30 năm cầm quân trước hết là thành công của nhà chính trị, thành công của sự khẳng định hoạt động cho mục đích giải phóng dân tộc, thành công của quan điểm, sức mạnh của toàn dân là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, cũng là thành công của một nhà quân sự thường xuyên giáo dục cho toàn quân truyền thống cội nguồn: từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
Còn về các tướng lĩnh, Đại tướng Giáp cũng thường nói: dù có tài giỏi đến đâu nhưng không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, không có một dân tộc anh hùng thì cũng không làm nên được công lao thành tích nào. Ngày 23/6/1997 trong cuộc tiếp cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc-Namara, một thành viên trong đoàn khách hỏi Đại tướng Giáp 1 câu khiến mọi người chú ý. Trong 30 năm chiến tranh, vị tướng nào được ông đánh giá cao nhất? Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời rằng: Chỉ có tướng nhân dân là người đánh thắng Mỹ, còn bất kỳ vị tướng nào dù có công lao đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Câu nói của nhà chính trị lão thành đồng thời cũng là nhà quân sự số 1 của Việt Nam. Trong suốt cuộc đời cầm quân của mình, Đại tướng Giáp luôn tôn trọng và tuân thủ sự lãnh đạo của tập thể, của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Cụ Hồ, luôn làm theo lời dậy của Bác “Dĩ công vi thượng” mong sao cho tâm trí và tài năng, tìm mọi biện pháp để cho chủ trương chiến lược được thực hiện với kết quả cao nhất. Quan điểm của Võ Nguyên Giáp là mọi thành công của một chủ trương chiến lược, mọi thắng lợi của chiến dịch đều là công lao của tập thể, của toàn quân, toàn dân, có yếu tố lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy không thể thiếu quan điểm quần chúng làm nên lịch sử.
Gắn liền với chiến tích và các bài học đúc kết từ thực tiễn chiến tranh cách mạng dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở kế thừa truyền thống cách mạng, truyền thống quân sự của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quân sự cổ, kim, Đông, Tây. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần sáng tạo xuất sắc phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới để lại cho thế hệ chúng ta và mãi mãi về sau một di sản lý luận quân sự quý báu rất đáng trân trọng.