Vị tướng tài năng, người thủ trưởng quyết đoán, người anh đôn hậu, giàu tình cảm…, đó là những từ ta thường nghe đồng chí, đồng đội và người thân nói về Thiếu tướng Mai Văn Phúc, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 7, nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật quân khu. Lần đầu tiên tôi gặp ông là khi thực hiện bộ phim truyền thống kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Cục Kỹ thuật Quân khu 7 (1979-2009). Với chất giọng xứ Quảng (Hòa Hải, Hòa Vang, Quảng Nam, nay thuộc Đà Nẵng - PV), ông chậm rãi kể cho tôi nghe những ngày đầu mới thành lập Cục Kỹ thuật quân khu và tham gia phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam.
“Bây giờ nhìn lại buổi ban đầu mới thấy hết sự khó khăn, vất vả, nhân viên kỹ thuật không những thiếu về số lượng mà còn thiếu về chất lượng, tìm được những cán bộ có trình độ kỹ sư, trung cấp rất khó. Ngành xe phải lấy những đồng chí lái xe cũ có nhiều kinh nghiệm lên làm trưởng ngành, lấy lái xe dân sự về đào tạo kỹ thuật lái xe quân sự. Anh nào thông thạo về kỹ thuật mình cũng nhận về. Thời điểm đó, anh em lấy tinh thần trách nhiệm làm chính, đồng tâm hiệp lực, vượt qua khó khăn, góp phần giúp Cục Kỹ thuật hoàn thành nhiệm vụ. Không những thế, phương tiện phục vụ lúc đó rất khó khăn. Điều kiện thị trường cũng vậy, không phải cái gì mình cần là ngoài thị trường cũng có, cho nên Cục đã hình thành những xưởng gia công bên ngoài để nhờ họ sản xuất phục vụ cho chiến trường” - Thiếu tướng Mai Văn Phúc nhớ lại.
Khó khăn lớn nhất trong giai đoạn này là bảo đảm khối lượng lớn vũ khí trang bị cho một chiến trường rộng lớn, xa hậu phương, trong khi khả năng của ta lại có hạn. Đứng trước tình hình trên, Đảng ủy Cục Kỹ thuật đã xác định giải pháp cơ bản là: Củng cố hệ thống, các cơ sở kỹ thuật nội địa đủ mạnh để phục vụ tốt chiến trường; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, biến khoa học kỹ thuật thành lực lượng vật chất, đồng thời thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí. Hệ thống kho, xưởng và đội hình sửa chữa phải theo sát các đơn vị chiến đấu, cố gắng sửa chữa vũ khí trang bị tại chỗ, hạn chế vũ khí trang bị chuyển về quân khu sửa chữa. Đẩy mạnh các phong trào thi đua như “giữ tốt, dùng bền, an toàn, tiết kiệm”; “yêu xe như con, quý xăng như máu”, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ chiến sĩ nói chung và của đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật trong sử dụng, quản lý các loại vũ khí, trang bị để phục vụ tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Toàn ngành đã phục vụ tốt các chiến dịch phản công, tiến công truy quét địch; các chiến dịch mùa khô năm 1982-1983, năm 1984-1985, chiến dịch biên giới K5… Trong 10 năm phục vụ lực lượng vũ trang Quân khu 7 chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế giúp bạn, ngành Kỹ thuật quân khu đã tiếp nhận và cấp phát 6.319 tấn vũ khí đạn dược, bảo dưỡng và sửa chữa hơn 62.000 khẩu súng các loại, đưa về Tổng cục Kỹ thuật sửa chữa 98.919 khẩu súng các loại, bảo quản và sửa chữa hơn 4.500 tấn đạn dược. Tiếp nhận trên 330 xe ô tô và xe tăng các loại, bảo đảm đồng bộ 1.300 xe ô tô cho các mặt trận; bảo dưỡng và sửa chữa cho hơn 95.500 lượt xe ô tô, xe tăng - thiết giáp.
Trong tâm trí của Thiếu tướng Mai Văn Phúc, ông vẫn nhớ như in cái khó khăn, vất vả của những người “lính thợ” khi đưa vũ khí ra chiến trường: “Campuchia có thời tiết khí hậu rất kì lạ. Mùa mưa sông suối nước tràn ngập, ngăn cách, đưa được vật tư, súng đạn đến chiến trường rất vất vả, chưa nói đến vấn đề bị địch phục kích. Nhưng anh em vẫn cố gắng làm được, không chỉ bảo đảm cho ta mà còn san sẻ cho quân đội của bạn… Đến mùa khô thì bụi mù mịt, đi không thấy đường nhưng vẫn phải bảo đảm đủ súng, đủ đạn cho bộ đội. Khẩn trương và quyết liệt nhất là chiến dịch mùa khô năm 1985, khối lượng vũ khí bảo đảm nhiều, diện bảo đảm rộng, cho nên trong công tác bảo đảm kỹ thuật, ngành kỹ thuật Quân khu bất kể ngày hay đêm đều phải “lăn” ra làm. Trong khi bảo đảm vũ khí trang bị cho mặt trận phía trước, ta vừa bảo đảm cho ta, vừa bảo đảm cho bạn. Bạn phát triển chiến đấu đến đâu, chúng ta trang bị cho bạn đến đó”.
Nhìn lại chặng đường 10 năm từ năm 1979 đến 1989, ngành kỹ thuật Quân khu 7 vừa ổn định tổ chức, vừa thực hiện hai nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế trong bối cảnh đất nước phải đối phó với nhiều kiểu chiến tranh phá hoại của kẻ thù. Tuy vậy, cán bộ, chiến sĩ ngành kỹ thuật Quân khu từ hậu phương đến các mặt trận luôn phát huy truyền thống trong hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc để vượt qua khó khăn, trở ngại, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ở hậu phương, vừa bảo đảm kỹ thuật cho lực lượng vũ trang Quân khu hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.
TUẤN NGHĨA
3926 lượt xem