
Đồng chí Lê Doãn Hợp, nói chuyện chuyên đề “Hào khí non sông, viết tiếp trang sử vẻ vang Đại thắng mùa xuân năm 1975” tại Sư đoàn 5.
Có người nói tạm biệt, có người nói vĩnh biệt quê hương. Tôi thoáng nghĩ: không ít đồng đội của tôi sẽ có người không trở về, vì chiến tranh đang bước vào thời kỳ khốc liệt nhất. Nhưng không ai nghĩ rằng kết thúc chiến tranh số người không trở về quê mẹ lại đông đến thế. Hơn 90% đồng đội của chúng tôi đã vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường. Chỉ có 51 người trên 516 người còn sống, được may mắn trở về đất mẹ. Số liệu này đủ nói lên sự khắc nghiệt của chiến tranh mà chúng tôi nếm trải.
Mùa mưa năm 1969, chúng tôi đang đứng chân ở chiến khu Đ. Khi Trung tá Phó tham mưu trưởng Sư đoàn 5 Nguyễn Xuân Chuyên chiêu hàng, mọi vị trí trú quân của cả sư đoàn đều bị lộ. Tất cả các đơn vị đều phải cấp tốc di chuyển địa điểm đóng quân. Trong hoàn cảnh vội vàng và khẩn trương để bảo vệ toàn bộ lực lượng, mỗi đơn vị (cấp đại đội) để lại một người quản lý tất cả mọi quân trang, quân dụng không thể đưa đi hết, để đêm hôm sau đơn vị trở lại vận chuyển tiếp. Lúc đó tôi là cán bộ trẻ, lại đang trong thời kỳ thử thách để kết nạp Đảng, nên được đơn vị chọn cử ở lại trông coi vật tư, khí tài của đơn vị.
Căn cứ khi chúng tôi đóng quân vui nhộn như thế nào thì bây giờ vắng vẻ đến lạnh lùng. Con suối hàng ngày chúng tôi vẫn vui đùa khi tắm, bây giờ tôi chỉ kịp chạy xuống lấy nước uống rồi lên ngay. Suốt đêm tôi không tài nào ngủ được, ở trong hầm thì sợ hổ và rắn; lên mặt đất thì sợ pháo bầy, biệt kích; trèo lên cây ngồi lại sợ ngủ quên rơi xuống đất. Suốt ngày đêm chỉ ăn lương khô uống nước suối, nóng lòng chờ đồng đội. Đến lúc này tôi mới hiểu ra: Điều đáng sợ nhất trên đời là cô đơn.

Thượng tá Lê Đức Nhân, Phó Chính ủy Sư đoàn 5 tặng hoa cựu chiến binh Lê Doãn Hợp, nhân dịp ông về nói chuyện chuyên đề “Hào khí non sông, viết tiếp trang sử vẻ vang Đại thắng mùa xuân năm 1975”, tại Sư đoàn 5.
Cả Trung đoàn và tiểu đoàn đặc công vừa đi vừa chạy suốt đêm. Đúng 4 giờ sáng ngày 5/5/1970, chúng tôi nổ súng. Sau hơn một giờ chiến đấu, chúng tôi giải phóng thị xã, địch chạy toán loạn sang bên kia sông. Chúng tôi phá nhà tù cứu đồng bào, tất cả bà con òa ra ôm bộ đội khóc nức nở và nói: "Các chú đã sinh ra chúng tôi lần thứ 2".
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Sư đoàn 5 chúng tôi được đứng trong đội hình Binh đoàn 232. Nhiệm vụ của sư đoàn là giải phóng tỉnh Long An và tiến vào đánh chiếm 2 trung tâm đầu não của Ngụy là: Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát Sài Gòn. Làm chủ hàng chục km đường 4 từ Mỹ Tho đến Bến Lức Long An, cả sư đoàn háo hức tiến vào Sài Gòn. Chúng tôi đã làm chủ tất cả các mục tiêu mà Bộ Tư lệnh sư đoàn giao vào buổi trưa ngày 30/4/1975.
Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái hào khí của giờ toàn thắng, khi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân giải phóng. Đây là giây phút vẻ vang nhất của đời lính chiến. Từ trưa 30/4/1975 đến những ngày đầu tháng 5/1975, cả Sài Gòn cuồn cuộn dòng người, rừng cờ, biển hoa và tiếng reo hò vui sướng của quân dân ta không ngớt. Chúng tôi được dân mời lên xe, uống cà phê, ăn sáng không lấy tiền. Đêm thức mà ngày không buồn ngủ, ít ăn mà bụng vẫn no. Đó là những ngày thăng hoa, đẹp nhất của người lính chiến không ai có thể lột tả hết được bằng lời.
(Ghi theo lời kể của cựu chiến binh Lê Doãn Hợp, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông)