Năm 1948, đồng chí nhập ngũ, biên chế về Đại đội Quang Trung. Năm 1950, đồng chí là Thư ký nông trường Trung đoàn 812 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Những năm từ 1951 đến 1954, đồng chí là chiến sĩ, rồi Trung đội phó thuộc Đại đội 222, Trung đoàn 812.

Thiếu tướng Trần Thành Lập
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, đồng chí Trần Thành Lập đã chỉ huy nhiều trận đánh ở kho xăng Nhà Bè, kho bom Thành Tuy Hạ… tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Những năm từ 1969 đến 1976, đồng chí Trần Thành Lập đảm nhiệm các chức vụ Phó Chính ủy, rồi Chính ủy Đoàn 10. Dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Ban Chỉ huy và Chính ủy Trần Thành Lập, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác chiến đấu rất kiên cường trên mặt trận sông nước. Mặc dù lực lượng hy sinh nhiều trong các trận chống càn (mỗi đại đội chỉ còn từ 15 đến 30 tay súng), phải ăn cháo kèm rau, luộc sú, vẹt ăn thay cơm, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10 vẫn quyết tâm bám trụ, tiêu diệt địch, giữ vững vùng căn cứ.
Từ năm 1977 đến năm 1978, đồng chí là Phó Chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 302, Quân khu 7. Về nhận nhiệm vụ vào thời điểm Sư đoàn 302 từ một đơn vị đang làm nhiệm vụ kinh tế được tổ chức thành đơn vị thường trực chiến đấu, Chủ nhiệm Chính trị Trần Thành Lập cùng Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Sư đoàn tích cực chủ động, xây dựng đơn vị vững mạnh, nhanh chóng bước vào nhiệm vụ mới, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn, sư đoàn đã nhanh chóng ổn định tổ chức, biên chế, khắc phục mọi khó khăn, thực hiện tốt công tác đảng, công tác chính trị trên mọi mặt (huấn luyện, chiến đấu, xây dựng), hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Giữa năm 1978, đồng chí được cử đi học tại Học viện Chính trị - Quân sự Bộ Quốc phòng. Sau khi hoàn thành khóa học, từ năm 1979 đến năm 1982, đồng chí về đảm nhiệm chức vụ Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 303, Quân khu 7. Từ tháng 4-1982 đến tháng 11-1988, đồng chí Trần Thành Lập đảm nhiệm các chức vụ: Phó Trưởng phòng Cán bộ, Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7. Với cương vị Phó Chủ nhiệm Chính trị, đồng chí tham mưu cho Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu xây dựng ý chí quyết tâm, động viên Quân tình nguyện xác định được mục tiêu “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Hướng mọi hoạt động của Quân tình nguyện giúp bạn nhanh chóng mạnh lên, tự đảm đương được nhiệm vụ cách mạng, coi trọng cán bộ, nhân dân bạn như cán bộ, nhân dân mình. Cho dù cách mạng Campuchia còn lâu dài, khó khăn và phức tạp, nhưng tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia ngày càng thêm thắt chặt.
Năm 1989, đồng chí được bổ nhiệm Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Nhận nhiệm vụ vào thời điểm trên địa bàn Thành phố vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ cũ, các thế lực phản động chống phá ta bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi. Mặt khác, lực lượng vũ trang Thành phố vừa hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về, đời sống cán bộ, chiến sĩ nói chung còn hết sức khó khăn. Để ổn định tư tưởng, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, sẵn sàng đối phó thắng lợi mọi tình huống có thể xảy ra, Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị Trần Thành Lập cùng Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố tập trung xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; thực hiện “chuyển đổi phong cách lãnh đạo, tạo sự chuyển biến từ cơ sở”. Lực lượng vũ trang được xây dựng bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, bảo đảm cả số lượng và chất lượng, trong đó chất lượng là hàng đầu; số lượng phải đủ, đồng bộ (lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, quân dự bị); xây dựng hậu phương quân đội gắn bó với dân, hòa nhập với các phong trào của Thành phố. Cán bộ, chiến sĩ tại ngũ, dân quân tự vệ, quân dự bị được quan tâm hỗ trợ vượt khó khăn.
Đồng thời, các đối tượng chính sách được coi trọng, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Năm 1994, đồng chí Trần Thành Lập được thăng quân hàm Thiếu tướng. Năm 1995, đồng chí được nghỉ hưu theo chế độ. Trong thời gian nghỉ hưu, đồng chí tham gia nhiều hoạt động từ thiện, ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam, nhiệt tình, hăng hái trong công tác của Đảng, đoàn thể ở địa phương.
Mặc dù tuổi cao, nhưng đồng chí vẫn làm nhiều việc có ích cho xã hội, góp phần vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Hơn 45 năm hoạt động cách mạng, tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường, có những đóng góp cho sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam cả trong kháng chiến cũng như sau khi đất nước thống nhất, hòa bình; đồng chí được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba…