
Thiếu tướng Nguyễn Hữu Đức (1934-2009)
Đầu năm 1959, đồng chí được điều động về Hà Nội, chuẩn bị vào miền Nam chiến đấu. Trong quá trình chuẩn bị vào chiến trường, tư tưởng quyết tâm của đồng chí rất ổn định. Do năng lực, quan điểm, lập trường và sức khỏe tốt, nên tổ chức và Quân đội giao cho đồng chí làm Đoàn trưởng - Bí thư Chi bộ để đi vào miền Nam chiến đấu. Tháng 6-1960, đoàn của đồng chí đến Liên tỉnh 3 (tiền thân của Quân khu 6), đóng quân tại miền Tây huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa. Năm 1962, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội đặc công 121, Quân khu 6. Năm 1964, đồng chí đảm nhiệm Đại đội trưởng đơn vị biệt động thành phố Đà Lạt. Những năm từ 1966 đến 1968, giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 810, năm 1968, Tham mưu trưởng Tỉnh đội Tuyên Đức (nay thuộc tỉnh Lâm Đồng) kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 810. Năm 1969, Thành đội trưởng Thành đội Đà Lạt.
Năm 1972, đồng chí là Tỉnh đội phó Tỉnh đội Tuyên Đức. Đầu năm 1973, đồng chí giữ Quyền Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Tuyên Đức. Cuối năm 1973, đồng chí được Quân khu 6 cử đi học tại Học viện Quân sự Cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng) ở Hà Nội.
Tháng 7-1976, đồng chí là Tham mưu phó Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng. Tháng 5-1978, Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng. Từ năm 1981, đồng chí được cử đi học hoàn thiện về tham mưu chiến dịch, chiến lược tại Học viện Quân sự Cao cấp.
Năm 1982, đồng chí là Chỉ huy phó - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng. Năm 1983, đồng chí làm Trưởng đoàn Chuyên gia quân sự 5504, Mặt trận 579, Quân khu 5 thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại tỉnh Xiêm Riệp (Campuchia). Với tư cách Trưởng đoàn, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Đoàn, lãnh đạo, chỉ huy cán bộ, chiến sĩ Đoàn 5504 nhanh chóng bám sát, nắm bắt tình hình, tìm hiểu thực tế lực lượng, khả năng của bạn, đặc điểm dân cư; từ đó tham mưu cho bạn biện pháp vận động quần chúng, củng cố lại chính quyền từ cấp cơ sở. Từ bộ máy chính quyền các cấp, ta tham mưu tổ chức lại đời sống kinh tế - xã hội, tổ chức sản xuất, xây dựng dân quân du kích cùng nhân dân vừa lao động sản xuất vừa chủ động đánh địch bảo vệ phum sóc. Bên cạnh các hoạt động trên, Đoàn 5504 còn tập trung tham mưu giúp bạn biện pháp củng cố tổ chức lực lượng vũ trang, triển khai học tập nâng cao giác ngộ chính trị, trung thành với sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia; tổ chức huấn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bạn, vừa có thể đánh bại các hoạt động đột nhập nhỏ lẻ của Khơme Đỏ, vừa cùng phối hợp với bộ đội Việt Nam tiến công tiêu diệt các cứ điểm, các đơn vị chủ lực của địch. Nhờ vậy qua một thời gian, bạn đã trưởng thành về nhiều mặt, từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ. Năm 1985, đồng chí Nguyễn Hữu Đức hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, trở về nước và được bổ nhiệm làm Phó Chỉ huy trưởng - Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng.
Tháng 10-1990, đồng chí Nguyễn Hữu Đức được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng và được Chủ tịch nước thăng quân hàm Thiếu tướng. Trong thời gian này, đồng chí cùng Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cùng Đảng bộ và nhân dân tỉnh giữ vững sự ổn định và không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phát huy vai trò tham mưu - tổ chức thực hiện các hoạt động của công tác quân sự địa phương, cùng các cấp, các ngành chiến đấu, giải quyết cơ bản vấn đề FULRO; xây dựng lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững chắc, tham gia phòng thủ, bảo vệ vững chắc biên giới trên địa bàn và làm tròn nhiệm vụ quốc tế.
Tháng 5-1995, đồng chí Nguyễn Hữu Đức được nghỉ hưu theo chế độ. Suốt gần 50 năm hoạt động cách mạng liên tục chiến đấu, công tác, trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Hữu Đức được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành tốt và có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Với những thành tích đạt được, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Quân công hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác.