
Thượng tướng Trần Đơn
Trung đoàn 159. Tháng 9-1986, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại chiến trường Campuchia, đồng chí tiếp tục được cử đi học tại Trường Quân sự Quân khu 7. Tháng 5-1989, hoàn thành khóa học, đồng chí về làm Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Trung đoàn 738, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Đến tháng 11-1989, về nhận công tác tại Trung đoàn Vàm Cỏ, đồng chí trải qua nhiều chức vụ: Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng (từ 11-1989 đến 4-1990), Quyền Trung đoàn trưởng (từ 5 đến 9-1990), sau đó làm Trung đoàn trưởng đến tháng 7-1994. Trong thời gian này, đồng chí tham gia học lớp đào tạo chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn tại Học viện Lục quân (từ 10-1990 đến 7-1991). Từ tháng 8-1994 đến tháng 12-1996, đồng chí là học viên Học viện Quốc phòng.
Từ tháng 1 đến tháng 5-1997, đồng chí được bổ nhiệm làm Phó Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An. Tháng 6-1997, đồng chí về công tác tại Bộ Tham mưu Quân khu 7 với cương vị Phó Trưởng phòng Tác chiến (từ 6-1997 đến 5-1998), Trưởng phòng Tác chiến (từ 6-1998 đến 6-1999). Từ tháng 7-1999, đồng chí là Phó Tham mưu trưởng Quân khu, có lúc kiêm Trưởng phòng Tác chiến (từ 10-2000 đến 8-2001). Trong thời gian này, đồng chí được cử đi học và làm Lớp trưởng lớp đào tạo cấp chiến dịch - chiến lược khóa đầu tiên tại Học viện Quốc phòng (từ 9-2001 đến 7-2002).
Tháng 7-2004, đồng chí về công tác tại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh với cương vị Chỉ huy trưởng. Đồng chí đã cùng với tập thể Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tham mưu cho Tỉnh ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ và dân vận tốt, góp phần xây dựng “Thế trận lòng dân”; tham mưu cho Đảng ủy, chính quyền tỉnh và làm nòng cốt trong công tác xây dựng chốt dân cư trên tuyến biên giới; xây dựng tỉnh Tây Ninh là tỉnh biên giới đầu tiên trên cả nước áp dụng thành công mô hình chốt dân quân trong cụm tuyến dân cư biên giới.
Đến tháng 2-2009, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 7, được thăng quân hàm Thiếu tướng, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI. Tháng 12-2011, đồng chí được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu 7. Tháng 12-2012, đồng chí được thăng quân hàm Trung tướng. Cùng với tập thể Thường vụ Đảng ủy Quân khu 7, Bộ Tư lệnh Quân khu, trên cương vị Tư lệnh, đồng chí đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự - quốc phòng của Đảng, gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu 7 lớn mạnh về mọi mặt, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp; gắn kết chặt chẽ giữa quốc phòng - an ninh, đối ngoại.
Tháng 10-2015, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 2016, đồng chí tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, được Bộ Chính trị chỉ định tham gia Thường vụ Quân ủy Trung ương. Tháng 12-2016, đồng chí được thăng quân hàm Thượng tướng. Với trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Thượng tướng Trần Đơn đã cùng tập thể Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng luôn đoàn kết, thống nhất, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội, nhất là các lĩnh vực được phân công trực tiếp chỉ đạo trong công tác bảo đảm quốc phòng như: Hậu cần, Tài chính, Đầu tư, Kinh tế. Nổi bật là việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính, đề xuất cơ chế mới trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội, Quân đội trong phòng, chống đại dịch Covid-19, quy hoạch toàn bộ hệ thống bệnh xá trong toàn quân.
Đồng chí Trần Đơn là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội; được đào tạo cơ bản và trưởng thành từ cơ sở, đảm nhiệm nhiều cương vị chỉ huy chủ chốt trong Quân đội; được rèn luyện trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia, đồng chí là thương binh loại A (tỷ lệ 31%). Trong suốt hơn 40 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng, trên từng cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn kiên định, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, giữ vững và phát huy phẩm chất của người đảng viên Đảng Cộng sản; vai trò, trách nhiệm của người cán bộ Quân đội, không quản ngại khó khăn, gian khổ, nỗ lực phấn đấu, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ toàn quân.
Với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Quân công hạng Nhất; 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Ba; 2 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; 3 Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; 2 Huân chương Hữu nghị hạng SENA của Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia; Huân chương Hữu nghị Ítxala hạng Nhì của Chủ tịch nước Lào và nhiều phần thưởng cao quý khác.