Báo Quân giải phóng (mật danh A4) là cơ quan trực thuộc Phòng Chính trị Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi tắt là Phòng Chính trị Miền), do Trưởng ban Tuyên huấn Lê Đình Lệ (Tư Trực) kiêm phụ trách - tương đương chức vụ Tổng biên tập sau này. Hòm thư của báo là 1820B. Thường trực tòa soạn có 2 cán bộ: Võ Thành Liên (Ba Hiên) - Thư ký tòa soạn và Trần Nam Hương - Biên tập viên.
Ngay sau ngày Ban Quân sự Miền công bố chủ trương thành lập báo, Phòng Chính trị Miền tổ chức hội nghị xác định chủ đề, cấu trúc chuyên mục, cơ chế viết - duyệt bài, cách thức in - phát hành và phân công nhiệm vụ thực hiện.
Về quy cách và chủ đề tờ báo, hội nghị xác định báo in 4 trang, tùy vào thời điểm ra báo mà mỗi số, ngoài bình - xã luận, có chủ đề riêng nhằm tuyên truyền chủ trương của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền, phản ánh hoạt động xây dựng, chiến đấu, công tác của các LLVT và phong trào kháng chiến của Nhân dân miền Nam. Về lực lượng viết báo, ngoài hai cán bộ thường trực (Thư ký tòa soạn và biên tập viên), Chủ nhiệm Chính trị Miền yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương chịu trách nhiệm viết bài về ngành, đơn vị, địa phương mình gửi cho báo. Đặc biệt, các trợ lý thuộc Ban Tuyên huấn (mật danh A1) và nhà văn thuộc Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng (mật danh A6) ngoài nhiệm vụ chuyên môn, phải tham gia viết bài thường xuyên cho Báo Quân giải phóng. Phòng Chính trị còn tổ chức một bộ phận (mật danh A5) kiêm nhiệm viết bình luận, xã luận, thông cáo quân sự của Bộ chỉ huy Miền. Ngoài ra, tại tòa soạn còn có các tổ tư liệu, đánh máy, trình bày (maquette), khắc bản gỗ, chuyển bài (xuống nhà in, sang Thông tấn xã, Đài Phát thanh giải phóng).
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1-11-1963, tờ Quân giải phóng phát hành số đầu tiên. Báo in 4 trang trên khổ khổ 27 x 39cm (từ số 35, thay bằng khổ 30 x 45cm). Do không có máy in kỹ thuật offset nên báo không có ảnh, minh họa chỉ là các hình vẽ từ bản khắc gỗ của các họa sĩ. 200 bản in của số đầu tiên được chuyển nhanh đến Bộ Chỉ huy Miền, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, các trung đoàn và đơn vị binh chủng (đến cấp đại đội), các Quân khu 6, 7, 8, 9, 10 và Sài Gòn - Gia Định. Từ tháng 12-1963, bộ phận thường trực tòa soạn khẩn trương đặt thu bài, biên tập các số tiếp theo. Sự xuất hiện của số đầu tiên đã kích thích cán bộ các cơ quan viết bài gửi cho Báo Quân giải phóng. Bộ phận bình - xã luận có các tác giả Hồ Văn Sanh, Mai Chiến Thái, Tư Hội, Nguyễn Viết Tá, Ngô Vy Ân, Phạm Phú Bằng… Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng có Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi), Thanh Giang, Võ Trần Nhã…; Các cơ quan đơn vị có Trần Hàm Ninh, Xuân Huy, Ngọc Châu và nhiều cộng tác viên khác trên các chiến trường. Từ số 2 trở đi, báo không gửi in tại Nhà in Giải phóng (thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục) mà tự in tại Xưởng in của Phòng Tuyên huấn - Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam, do Nguyễn Văn Bang tự chế; chữ chì, giấy và mực in gửi cơ sở mua từ Sài Gòn hoặc thành phố Phnom Penh - Campuchia.
Từ giữa năm 1965, khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và đồng minh vào tham chiến tại chiến trường miền Nam, Quân ủy Miền chỉ đạo các LLVT giải phóng giữ vững thế tiến công địch, phát triển lực lượng ba thứ quân, xác định quyết tâm đánh thắng quân viễn chinh Mỹ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, Báo Quân giải phóng được bổ sung thêm lực lượng. Năm 1965, nhà báo Phạm Phú Bằng, phóng viên Báo Quân đội Nhân dân được cử vào Phòng Tuyên huấn - Cục Chính trị Miền làm trợ lý báo chí. Giữa năm 1966, liên tiếp có nhiều đoàn cán bộ - hoặc từng làm báo ở các đơn vị hoặc vừa tốt nghiệp các trường đại học ở Hà Nội - vượt Trường Sơn vào bổ sung cho Báo Quân giải phóng. Đoàn thứ nhất gồm 12 người: Tô Tấn, Tô Sản, Nguyễn Đản, Nguyễn Kỳ, Trương Quốc Tụy, Phan Tư, Phan Cung Tùng, Nguyễn Hải Bật, Trần Phấn Chấn, Nguyễn Đình Thịnh, Trần Thị Vinh, Hà Thị Phương Thịnh. Đoàn thứ hai có 5 người: Ngô Thế Kỷ, Duy Khải, Lê Minh, Mai Bá Thiện, Đỗ Công Viện. Đoàn thứ ba có 4 người: Thân Trọng Hân, Đặng Văn Nhưng, Phạm Ngọc Thành, Lê Thế Thành.
Cùng với các đoàn nhà báo vào từ hậu phương miền Bắc, Cục Chính trị điều động một số cán bộ có năng khiếu viết báo từ các cơ quan của Miền về tòa soạn, gồm Hoàng Xuân Huy, Nguyễn Ngọc Châu, Phan Huân, Ngô Đăng Rêu. Từ các cơ quan của Miền sang có lực lượng làm báo trở nên hùng hậu. Từ đây, Báo Quân giải phóng chia thành hai bộ phận: bộ phận tác nghiệp tại các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường gọi là “vòng ngoài”, bộ phận làm việc tại tòa soạn gọi là “vòng trong”. “Vòng ngoài” có 14 người (gồm Tô Tấn, Tô Sản, Nguyễn Đản, Nguyễn Kỳ, Trương Quốc Tụy, Phan Tư, Phan Cung Tùng, Nguyễn Hải Bật, Trần Phấn Chấn, nguyễn Đình Thịnh, Trần Thị Vinh, Hà Thị Phương Thịnh, Mai Bá Thiện, Đỗ Công Viện) nên tự đặt là A14; về sau bổ sung thêm Thân Trọng Hân, Đặng Văn Nhưng, Phạm Ngọc Thành, Lê Thế Thành. “Vòng trong” ngoài Thư ký tòa soạn Võ Thành Liên và “Trợ lý văn chương” Trần Nam Hương, có Ngô Thế Kỷ, Duy Khải, Lê Minh, Hoàng Xuân Huy, Nguyễn Ngọc Châu, Phan Huân, Ngô Đăng Rêu. Tại Phòng Tuyên huấn, tổ A5 ngoài Lê Đình Lệ, Lê Thế Thưởng, Hồ Văn Sanh, Nguyễn Viết Tá, Mai Chiến Thái, Tư Hội, có thêm Phạm Phú Bằng, Tư Tuyến, Tám Phước, Trần Hàm Ninh, Ngô Vy Ân, Phan Thiệu Cơ. Ngoài Xã luận, tùy vào từng nhiệm vụ chính trị trong từng thời điểm mà báo mở các chuyên mục Tin chiến sự, Dân tộc anh hùng - Quân đội anh hùng, Miền Nam anh dũng, Tình cá nước, Gương người tốt việc tốt, Thường thức, Mũi chông nhọn, Thù này quyết trả… với các hình khắc gỗ minh họa sinh động, hấp dẫn. Từ số 101 kỷ niệm xuân Đinh Mùi 1967, báo xuất bản khổ 37 x 53cm, bắt đầu sử dụng kỹ thuật in offset với nhiều hình do các phóng viên ảnh gửi về.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, hầu hết nhà báo ở “vòng ngoài” và cả “vòng trong” đều ra trận, theo các đơn vị Quân giải phóng tiến về Sài Gòn. Từ năm 1969, Báo Quân giải phóng củng cố lại lực lượng, rút một số phóng viên vòng ngoài (như Mai Bá Thiện, Phạm Ngọc Thành, Đặng Văn Nhưng) về tăng cường cho bộ phận thường trực tại tòa soạn. Để tăng cường lực lượng phóng viên trong bối cảnh địch phản kích quyết liệt sau sự kiện tết Mậu Thân, Cục Chính trị Miền chỉ đạo tổ chức một lớp bồi dưỡng viết báo cho hơn 30 học viên là các cộng tác viên của Báo Quân giải phóng và cán bộ tuyên huấn từ các đơn vị. Lớp học được tổ chức tại Suối Tiên - căn cứ Bắc Tây Ninh, trong 3 tháng. Mãn khóa, một số học viên được giữ lại công tác tại Báo Quân giải phóng, như Lê Quang Mưu, Nguyễn Ngọc Lưu, Nguyễn Đức Toàn, Phạm Bình, Đào Bá Hạp, Vũ Hữu Sự, Nguyễn Đỗ Văn, Lương Văn Luy, Hà Văn Cung. Số còn lại trở về đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu, công tác và làm cộng tác viên cho báo.
Đầu năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Báo Quân giải phóng được bổ sung hơn 10 phóng viên vừa tốt nghiệp Phân viện báo chí tuyên truyền ở Hà Nội, gồm Cẩm Hùng, Hoàng Huân, Việt Ân, Đỗ Tất Thắng, Đỗ Đình Nghiệp, Đỗ Xuân Trường, Trần Đình Bá, Vũ Hồng Hưng, Lê Huy Nhật, Lê Văn Sung, Vũ Ngọc Xiêm. Cùng với Bộ Tư lệnh Miền và các cơ quan trực thuộc, tòa soạn Báo Quân giải phóng dời căn cứ từ Bắc Tây Ninh về huyện Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước). Bộ phận “vòng ngoài” và bộ phận “vòng trong” nhập làm một, đóng tại Làng 4, cách Sở chỉ huy Miền ở Tà Thiết hơn 10 km về hướng Bắc. Trưởng Phòng Tuyên huấn kiêm phụ trách Báo Quân giải phóng Lê Đình Lệ được điều động tham gia Phái đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên Trung ương tại Trại Davis - sân bay Tân Sơn Nhất. Nguyễn Viết Tá được giao trách nhiệm phụ trách Báo Quân giải phóng, làm Tổng biên tập. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Báo Quân giải phóng chuyển từ Làng 4 - Lộc Ninh về Thành phố Hồ Chí Minh, đặt tòa soạn tại số 2bis đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1). Tại đây báo tiếp tục ra 18 số, từ số 320 đến số 338 (ra ngày 15-10-1975). Khi Bộ Tư lệnh Miền và các cơ quan trực thuộc kết thúc nhiệm vụ, tổ chức quân sự và các đơn vị vũ trang sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện thời bình. Báo Quân giải phóng giải thể, trừ một số chuyển ngành, các phóng viên, biên tập viên chuyển về Báo Quân đội Nhân dân, Phòng Phát thanh Quân đội và Quân khu 7, Quân khu 9 tiếp tục công việc làm báo.
(Còn nữa)