Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đặt nền móng cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: “Việt Nam là một bộ phận trong nền hòa bình chung của thế giới”. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, công bố với toàn thế giới nước ta đã giành được độc lập. Đây là cơ sở pháp lý để Việt Nam đặt quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, nhằm tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới, bảo đảm cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Tư tưởng đó đã chỉ đạo xuyên suốt, là cơ sở hình thành nền ngoại giao cách mạng Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử một lần nữa minh chứng cho thắng lợi của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình, đề cao chính nghĩa; coi trọng xây dựng và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu nghị và quan hệ hợp tác với các lực lượng cách mạng, phong trào giải phóng dân tộc tiến bộ trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là nền ngoại giao vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau khi đập tan chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, nhất là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cục diện tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch đã có lợi cho ta, Đảng ta nhận định: “ta hoàn toàn có khả năng giữ quyền chủ động trên chiến trường”, thực hiện phương châm “vừa đánh vừa đàm; vừa đàm vừa đánh” nhằm tạo thế chủ động và phát huy sức mạnh quốc tế ủng hộ cho nhân dân Việt Nam. Chiến thắng của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 buộc Mỹ phải đàm phán với ta và ký Hiệp định Paris tháng 1 năm 1973. Đây là thắng lợi về ngoại giao lớn thứ hai mang tính bước ngoặt của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Sau Hiệp định Paris năm 1973, ta đã buộc Mỹ và các nước liên quan rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt hoạt động chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi dẫn đến đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam với tư tưởng chỉ đạo: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất”. Quyết tâm đó của Bộ Chính trị được xác định trên cơ sở nhận định: Chúng ta đã kết hợp đấu tranh chính trị với ngoại giao, kết hợp với kiên quyết phản công và tiến công đập tan mọi âm mưu, hành động lấn chiếm của địch.
Thực hiện phương châm chỉ đạo của Đảng và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, các hoạt động ngoại giao của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành mặt trận, đánh vào “hậu phương quốc tế” của Mỹ, mở rộng “hậu phương quốc tế” của Việt Nam, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn, mà nòng cốt là Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước Đông Dương ủng hộ Việt Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975.
Nhờ có hoạt động ngoại giao tích cực, đúng đắn, hiệu quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân mà chúng ta đã xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phương lớn chi viện tích cực cho chiến trường miền Nam. Cũng nhờ đó mà nhân dân ta đã huy động được khối lượng vũ khí, trang bị, kỹ thuật, lương thực, thực phẩm đầy đủ cho cuộc đụng đầu cuối cùng, cam go nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của đường lối đối ngoại của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn thể hiện ở việc tăng cường liên minh chiến đấu ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia chống đế quốc Mỹ. Đồng thời, mở rộng quan hệ đoàn kết hữu nghị với các nước châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh, tranh thủ vận động nhân dân Mỹ và nhân dân các nước phương Tây khác phản đối chiến tranh, hình thành mặt trận đoàn kết rộng lớn của nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong lịch sử thế giới, chưa có cuộc đấu tranh của một dân tộc nào lại được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới như cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống Mỹ xâm lược. Đường lối ngoại giao của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là cầu nối chuyển tải sức mạnh của cả thời đại đến với Việt Nam, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn trong cuộc đối đầu lịch sử với Mỹ.
Đại thắng Chiến dịch Hồ Chí Minh 30-4-1975, là thắng lợi của một Đảng cách mạng chân chính có đường lối chính trị, phương pháp cách mạng đúng đắn. Đó là thắng lợi của đường lối ngoại giao cách mạng Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của nền ngoại giao cách mạng được xây dựng trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng