(QK7 Online) - Sau thắng lợi đánh bại các cuộc tiến công đã đánh bại các cuộc hành quân mùa khô của Mỹ (1965-1966; 1966-1967) ta giành thắng lợi lớn có ý nghĩa rất quan trọng, Trung ương nhận định: Địch đã thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” và đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến dịch. Trước tình hình đó Trung ương chỉ đạo quyết tâm chiến lược mới là: “Khẩn trương tranh thủ thời gian, tạo mọi điều kiện, thời cơ giành thắng lợi liên tục, toàn diện và ngày càng lớn, giành thắng lợi”. Năm 1967 Cục Chính trị Miền triển khai đợt sinh hoạt chính trị trong các lực lượng vũ trang nhằm quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về thực hiện cuộc vận động “Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc mỹ xâm lược”. Tổ chức Đại hội anh hùng, chiến sỹ thi đua lần thứ 2 toàn miền Nam năm 1967 trên địa bàn Miền Đông Nam bộ; tại Đại hội phong tặng 471 cán bộ chiến sĩ toàn Miền Nam là anh hùng lực lượng vũ trang và chiến sỹ thi đua; nhiểu địa phương, đơn vị, tập thể và cá nhân được khen thưởng phong tặng danh hiệu Anh hùng, Huân chương giải phóng và cờ mang dòng chữ “Trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời, chiến thắng vẻ vang”. Riêngquân và dân miền Đông Nam Bộ được phong tặng 20/47 anh hùng lực lượng vũ trang toàn Miền Nam. Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua đã tạo động lực, niềm tin, sức mạnh mới; tinh thần đoàn kết, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tạo ra phong trào thi đua sôi nổi “Học tập thành tích các anh hùng, dũng sĩ, thi đua giết giặc lập công được triển khai toàn diện trong quân và dân miền Đông Nam bộ.
Đoàn Bình Giã làm Lễ xuất quân tham gia chiến dịch Mậu Thân 1968
Ảnh: Tư liệu
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương về “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, ngày 25-10-1967 Trung ương Cục ra Nghị quyết “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” trên chiến trường B2 (Nghị quyết Quang Trung); chiến trường Miền Đông Nam Bộ được xác định là hướng trọng điểm của chiến dịch. Để chuẩn bị cho “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, tháng 12 năm 1967 Bộ chỉ huy Miền quyết định giải thể Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, theo đó thành lập 6 phân khu (1, 2, 3, 4, 5, 6) còn lại ba tỉnh độc lập trực thuộc Quân ủy Miền (Biên Hòa U1, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tây Ninh). Ngày 2-1-1968 tại căn cứ Ba Thu huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, Trung ương Cục triển khai kế hoạch “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”; Đảng ủy các phân khu tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ và thống nhất từ trên xuống; chỉ đạo phòng chính trị nắm chắc tình hình, chủ động khẩn trương hướng dẫn các nội dung công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị lực lượng vũ trang miền Đông nổi bật đó là:
Về công tác tư tưởng: Khẩn trương tổ chức Hội nghị bàn về công tác đảng, công tác chính trị trước và trong tổng công kích; xác định nhiệm vụ hàng đầu là làm tốt công tác gíao dục chính trị tư tưởng, chỉ đạo tổ chức quán triệt thực hiện cuộc vận động “3 dân chủ” trong đơn vị, quán triệt đến mọi cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí, phát huy bản chất giai cấp công nhân quyết tâm chiến đấu sắt đá, kiên cường, tiến công địch mãnh liệt, dồn dập và liên tục; phát động phong trào thi đua “tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt”; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp, hiệp đồng tác chiến đánh bại các cuộc hành quân của địch; phát động phong trào quần chúng, thanh niên và sinh viên thi đua xung phong “xuống đường giải phóng quê hương”.
Về xây xựng đảng: Các phân khu chỉ đạo các đơn vị tổ chức học tập nghị quyết của Trung ương Cục và Nghị quyết của Phân khu ủy về thực hiện “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”; các chi, đảng bộ phải tiến hành đợt sinh hoạt kiểm điểm 1 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng “chi bộ 3 tốt”, “đảng viên 3 tốt”, củng cố kiện toàn cấp ủy chi bộ, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ trước khi bước vào thực hiện “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Tổ chức rà soát sắp xếp đủ cán bộ cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu, dự kiến số lượng cán bộ thay thế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; tổ chức tập huấn cán bộ về chỉ huy chiến đấu trong địa hình đô thị và tiến công mục tiêu trong thành phố. Các phân khu đều xây dựng được các tiểu đoàn, đại đội và bộ đội quận, huyện.
Lãnh đạo kiện toàn, sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các phân khu. Chấp hành Nghị quyết của Trung ương Cục Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn- Gia Định khẩn trương tổ chức kiện toàn, sắp xếp lại cán bô lãnh đạo, chỉ huy tăng cường cho các phân khu.
Phân khu 1, Trần Đình Xu (Ba Đình) làm Tư lệnh phân khu; Tư Trường làm Chính ủy. Phân khu 2, Lê Văn Nhỏ làm Tư lệnh; Võ Trần Chí làm Chính ủy. Phân khu 3, đồng chí Huỳnh Công Thân là tư lệnh; Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) làm Chính ủy. Phân khu 4, đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh; Đoàn Công Chánh (Sáu bảo) làm Chính ủy. Phân khu 5, đồng chí N.C.S làm Tư lệnh; Hoàng Minh Đạo (Năm Thu) làm Chính ủy (sau tiến công đợt 2 đồng chí đồng chí Nguyễn Văn Bứa làm tư lệnh). Phân khu 6, đồng chí Trần Hải Phụng làm Tư lệnh; Võ Văn Thạnh làm Chính ủy. Sau tiến công đợt 2 kiện toàn lại đồng chí Trần Bạch Đằng làm Bí thư, Nguyễn Thái Sơn làm phó Bí thư, Trần Hải Phụng làm chỉ huy trưởng, Võ Văn Thạnh làm Chính ủy, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) làm Phó chỉ huy trưởng, kiêm Tham mưu trưởng phân khu ủy.
Đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang các cấp tỉnh, huyện; lực lượng du kích xã được xây dựng phát triển mạnh mẽ, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.
Lãnh đạo lực lượng vũ trang tham gia các đợt “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Chiến dịch Mậu Thân được thực hiện thành 3 đợt (đợt 1 trong tháng 1 và tháng 2; đợt 2 trong tháng 5 và tháng 6; đợt 3 tháng 8 và tháng 9 năm 1968).
Trong suốt các đợt “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, cấp ủy, chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ luôn nắm chắc quan điểm, phương châm lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy Miền; kịp thời đề xuất chủ trương, giải phát thực hiện nhiệm vụ đúng, sát thực tế. Triển khai thống nhất từ trên xuống một cách toàn diện có trọng tâm trọng điểm. Phương pháp, hình thức, nội dung tiến hành CTĐ, CTCT thực hiện linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nhiệm và sát tình hình thực tế. Cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy các cấp luôn theo sát, nắm vững tư tưởng trong từng giai đoạn; triển khai tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là từng giai đoạn khó khăn. Kịp thời giải quyết tư tưởng, củng cố kiện toàn tổ chức xốc lại lực lượng trên từng hướng, mũi, đơn vị bị thổn thất; giữ được niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng, sự thắng lợi của cách mạng; chống được những tư tưởng dao động, hoài nghi trong cán bộ chiến sĩ, xây dựng được ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ. Kịp thời kiện toàn cấp ủy, tổ chức biên chế, sắp xếp cán bộ lãnh đạo chỉ huy các cấp trong khi chiến trường có nhiều thay đổi. Coi trọng công tác chính sách trong chiến đấu, công tác vận động Nhân dân địa bàn chiến đấu; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với công tác binh vận, địch vận, làm tan rã lực lượng địch gây sự tin tưởng của các tầng lớp Nhân dân hướng về cách mạng, giải quyết hậu quả chiến đấu.
Có thể khẳng định: Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị của LLVT miền Đông Nam bộ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng vào chiến công chung của dân tộc, để lại kết quả và kinh nghiệm quý báu cho LLVT miền Đông nói chung, LLVT Quân khu 7 nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng Trần Hữu Tài
Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7