(QK7 Online) -
Bàn chân thầy giáo
Thầy ngồi ghế giảng bài
Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ
Một bàn chân đâu rồi
Chúng em không rõ
Sáng nào bom Mỹ dội
Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi
Thầy cầm súng ra đi
Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
Năm nay thầy trở về
Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa
Nhưng một bàn chân không còn nữa
Đôi bàn chân
Ôi bàn chân
In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình
Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh
Hay Tây Ninh, Đồng Tháp?
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người
Em lắng nghe thầy giảng từng lời
Rung động bao điều suy nghĩ
Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mỹ
Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường
Em đi suốt chiều dài yêu thương
Chiều sâu đất nước
Theo những dấu chân người thầy năm trước
Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất
Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời...
Trần Đăng Khoa
Hình tượng người thầy - người lính
Dân tộc ta vốn có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, hình ảnh người thầy luôn được xã hội tôn vinh. Và với nhà thơ Trần Đăng Khoa, ngay từ khi còn là một cậu bé tám tuổi, ông đã có một chùm thơ viết về người thầy giáo của mình với những bài thơ như: Thầy giáo đi bộ đội (1966), Hỏi đường (1966), Nghe thầy đọc thơ (1967) và đặc biệt bài thơ Bàn chân thầy giáo (1972). Bài thơ nói về hình ảnh người thầy thương binh, gợi lên cảm xúc nghẹn ngào, những dấu hỏi xoáy sâu vào tâm linh như những băn khoăn trẻ thơ không thể nào lí giải: Một bàn chân của thầy giáo đâu rồi?
Trong số những người thầy đứng trên bục giảng hôm nay, không ít những người thầy đã từng là người lính. Khi đất nước lâm nguy, những người thầy đã hăng hái xung phong ra trận, cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương. Hòa bình lập lại những bàn tay cầm súng bây giờ cầm phấn để truyền thụ tri thức cho bao thế hệ học trò. Và trong số những người thầy giáo - người lính đã gửi lại một phần thân thể của họ nơi khói lửa chiến trường. Cậu bé Trần Đăng Khoa đã rưng rưng xúc động ghi lại hình tượng người thầy của mình với đôi nạng gỗ kề bên trong những giờ lên lớp. Và hình tượng “Bàn chân thầy giáo” trở thành hình tượng xuyên suốt mạch cảm xúc đó. Bài thơ như một câu chuyện kể, giản dị, ngắn gọn, nhưng lời thơ như một lát dao sắc cứa vào lòng người: “Thầy ngồi ghế giảng bài/ Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ”. “Đôi nạng gỗ” giờ đây thay thế cho một bàn chân của thầy, bàn chân ấy đâu rồi?! :“Chúng em không rõ”. Nỗi băn khoăn và suy nghĩ của học trò thật hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng đằng sau đó lại là một sự thật tàn khốc của chiến tranh đã in dấu vĩnh viễn trên cơ thể của người thầy. Chiến tranh đã qua đi những những tàn tích của chiến tranh vẫn còn đó. Và trong kí ức của những người học trò nhỏ, cái buổi sáng mùa hè rực lửa ấy, bom Mĩ đã dội xuống mái trường: “Phượng đổ ngổn ngang mái trường tốc ngói/ mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi”. Người thầy đã cầm súng ra đi mặc dù “Bài tập đọc dạy chúng em dang dở”, người thầy giáo của trường làng đã như bao người khác, xếp giáo án lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc, một sự ra đi, giản dị, tự nhiên như một hành động tất yếu nhưng lại hết sức cao cả, dũng cảm.
Và hôm nay đây thầy đã trở về, nụ cười trên đôi môi thầy vẫn “Nguyên vẹn như xưa” nhưng một bàn chân của thầy không còn nữa. Thầy đã gửi lại một bàn chân nơi chiến trường, đã hi sinh một phần cơ thể mình cho quê hương đất nước. Lời thơ nghèn nghẹn, xót xa, mằn mặn trĩu nặng tình thương của những người học trò trước mất mát không gì khỏa lấp: “Ôi bàn chân/ In lên cổng trường những chiều buốt giá/ In lên cổng trường những đêm mưa dầm/ Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo”. Sự hóa thân của tác giả - một cậu bé mới mười bốn tuổi - vào chủ thể trữ tình: em, chúng em khiến cho hình ảnh thơ, giọng thơ vừa hồn nhiên mang dáng dấp tuổi thơ lại vừa hằn trí tuệ suy tư mang tầm thời đại. Lối so sánh dấu nạng gỗ tròn thầy giáo đi qua để lại “Hai bên như hai hàng lỗ đáo” thì đúng là rất trẻ con, nhưng từ hai hàng lỗ đáo - hai hàng dấu nạng gỗ chân thầy giáo mà nhận ra những điều “Chưa hoàn hảo/ của cả cuộc đời mình” thì thật là người lớn và sâu sắc biết bao.
Hình ảnh bàn chân của thầy cứ trở đi trở lại trong những suy nghĩ miên man. Như hiện ra sống động trước mắt trẻ thơ là chiến trường đạn bom khói lửa và hình ảnh người thầy hiên ngang, can trường với bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc, bàn chân đi đánh Mỹ, bàn chân xông pha trận mạc làm nên lịch sử. Bàn chân của thầy còn dìu em đi suốt chiều dài yêu thương, chiều sâu đất nước. Bàn chân của thầy, bàn chân đã gửi lại trên chiến trường xa xôi, bàn chân để lại vết thương nhức nhối mỗi khi trái gió trở trời, bàn chân không còn hiện hữu… nhưng lại đem đến cho lũ học trò bao bài học làm người, bài học về yêu thương, bài học về lòng dũng cảm, bài học về đức hi sinh: “Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất/ Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời”.
Trần Đăng Khoa, với tấm lòng kính yêu, cảm phục, biết ơn chân thành đối với thầy giáo của mình đã khắc chạm chân dung người thầy - người lính với tấm lòng thuần hậu đầy vị tha và đức hi sinh cao cả. Dù trên chiến trường đầy đạn bom, hay trên bục giảng giữa mưa dầm gió bấc thì hình ảnh người thầy vẫn sáng lên tấm gương của sự tận tâm, tận tuỵ dìu dắt các thế hệ tương lai cập bến bờ tri thức và yêu thương. Bài thơ là tấm lòng biết ơn chân thành sâu nặng mà Trần Đăng Khoa đã nói hộ chúng ta với những người thầy giáo, cô giáo đã hi sinh một đời cho ta những bài học làm người.
Trà Hoa Nữ