Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, toàn bộ tài sản trên lãnh thổ Việt Nam thuộc về Nhân dân. Tuy nhiên, sau đó không lâu, thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Chúng lần lượt đánh chiếm Sài Gòn, các tỉnh Nam bộ, Nam Trung bộ rồi phát triển chiến tranh ra cả nước. Một lần nữa, quân Pháp làm chủ hệ thống các sân bay miền Nam, trong đó có sân bay Tân Sơn Nhất.
Sân bay Tân Sơn Nhất thời kỳ Pháp thuộc
Ảnh: Tư liệu
Nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động quân sự và phát triển kinh tế trong cuộc chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp chú trọng phát triển ngành hàng không, tập trung đầu tư củng cố, mở rộng những sân bay hiện có. Ngày 18-8-1947, Cao ủy Pháp ở Đông Dương E. Bollaert ban bố Nghị định số 230/2620, và tiếp đó, ngày 25-1-1948 ban bố Nghị định số 25/360 “về việc trưng dụng đất trong quy hoạch khu vực phi trường Tân Sơn Nhất”. Theo các nghị định trên, hàng chục thửa với hàng trăm mẫu đất thuộc sở hữu người Việt và người Pháp vùng kế cận được trưng dụng phục vụ cho hoạt động của sân bay, cả quân sự và dân sự.
Sau thất bại ở Biên giới năm 1950, quân Pháp ở Đông Dương lâm vào thế bị động về chiến lược. Ở trong nước, nền kinh tế và tài chính của Pháp vốn bị kiệt quệ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai lại càng sụt giảm nghiêm trọng. Ngân sách năm 1950 thiếu hụt 247 tỷ Francs. Để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, giới phản động hiếu chiến Pháp chủ trương nhượng bộ Mỹ để Mỹ trực tiếp viện trợ cho Đông Dương về kinh tế và quân sự. Riêng trong tài khóa 1950-1951, Mỹ viện trợ cho Pháp tổng cộng 314 triệu USD. Một phần trong số tiền viện trợ của Mỹ, thực dân Pháp giành để phát triển các cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục đích tăng cường chiến tranh như xây dựng căn cứ quân sự, hệ thống kho tàng, hệ thống đường giao thông thủy, bộ và hàng không.
Tháng 10-1951, Công ty Air Việt Nam được thành lập dựa trên quy định bản tuyên ngôn cộng đồng (ký ngày 17-6-1950) giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, với số vốn điều lệ là 18 triệu đồng tiền Đông Dương ngân hàng (trong đó 50% của chính phủ Bảo Đại, 50% của các cổ đông Pháp). Trụ sở chính của Air Việt Nam đặt tại Sài Gòn. Theo điều lệ, Công ty có một Hội đồng quản trị gồm 10 thành viên (7 thành viên người Việt Nam, 3 thành viên người Pháp), Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty là người Việt. Cùng với việc thành lập Công ty Air Việt Nam, Pháp đầu tư xây dựng Tân Sơn Nhất thành một trong những sân bay quốc tế lớn nhất Đông Nam Á với đường hạ cất cánh dài 2.400m; gửi mua những thiết bị điện tử viễn thông hiện đại trang bị cho sân bay, cử các chuyên viên đi huấn luyện tại nước ngoài.
Trong những ngày đầu thành lập, Air Việt Nam sở hữu 10 máy bay (3 chiếc DC.4, 4 chiếc DC.3, 3 chiếc BRISTOLS). Lợi nhuận của Công ty mỗi tháng trong quãng thời gian từ năm 1951 đến 1952 là 12 triệu đồng, năm 1953 là 20 triệu đồng, và năm 1954 lên tới 52 triệu đồng; với các đường bay chính trong nước: Sài Gòn - Hà Nội, Sài Gòn - Hải Phòng, Sài Gòn - Huế, Sài Gòn - Đồng Hới, Sài Gòn - Nha Trang và Sài Gòn - Đà Lạt; ngoài nước: Sài Gòn - Hong Kong, Sài Gòn - Bangkok, Sài Gòn - Phnompenh, Sài Gòn - Vientiane. Gọi là Công ty Air Việt Nam, nhưng thu nhập luôn có sự phân biệt và phần hơn vẫn thuộc về tay người Pháp.
Ngoài chức năng hoạt động dân dụng sinh lãi, sân bay Tân Sơn Nhất cũng như các sân bay khác ở miền Nam còn được sử dụng cho mục đích quân sự, nơi hạ cất cánh của các loại máy bay ném bom oanh tạc, chở quân đổ bộ, nhảy dù và hộ tống lực lượng bộ binh hành quân càn quét. Sau khi được Quốc hội Pháp chấp thuận cho Chính phủ Bảo Đại thành lập quân đội riêng (11-5-1950), “thủ tướng” Trần Văn Hữu chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển “quân đội quốc gia” có đầy đủ hải-lục-không quân. Năm 1952, Thiếu tướng Tổng tham mưu trưởng “Quân đội Quốc gia” Nguyễn Văn Hinh thành lập Ban không quân, cử người sang Pháp học lái máy bay, đặt tiền đề xây dựng lực lượng không quân của quân đội Sài Gòn sau này.
Chức năng quân sự ngày càng được gia tăng tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ngoài các loại vận tải quân sự như DC.3 (còn gọi là Dakota, chở được khoảng 30 người với tốc độ bay hơn 300km/h), còn có các loại trực thăng và máy bay chiến đấu có nhiệm vụ trinh sát, thả quân và ném bom. Năm 1954, Pháp phải huy động cả những chiếc Dakota dân sự từ sân bay Tân Sơn Nhất làm nhiệm vụ chuyên chở lính dù và quân nhu tiếp viện cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Sau thất bại ở Biên giới năm 1950, quân Pháp ở Đông Dương lâm vào thế bị động về chiến lược. Ở trong nước, nền kinh tế và tài chính của Pháp vốn bị kiệt quệ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai lại càng sụt giảm nghiêm trọng. Ngân sách năm 1950 thiếu hụt 247 tỷ Francs. Để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, giới phản động hiếu chiến Pháp chủ trương nhượng bộ Mỹ để Mỹ trực tiếp viện trợ cho Đông Dương về kinh tế và quân sự. Riêng trong tài khóa 1950-1951, Mỹ viện trợ cho Pháp tổng cộng 314 triệu USD. Một phần trong số tiền viện trợ của Mỹ, thực dân Pháp giành để phát triển các cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục đích tăng cường chiến tranh như xây dựng căn cứ quân sự, hệ thống kho tàng, hệ thống đường giao thông thủy, bộ và hàng không.
Tháng 10-1951, Công ty Air Việt Nam được thành lập dựa trên quy định bản tuyên ngôn cộng đồng (ký ngày 17-6-1950) giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, với số vốn điều lệ là 18 triệu đồng tiền Đông Dương ngân hàng (trong đó 50% của chính phủ Bảo Đại, 50% của các cổ đông Pháp). Trụ sở chính của Air Việt Nam đặt tại Sài Gòn. Theo điều lệ, Công ty có một Hội đồng quản trị gồm 10 thành viên (7 thành viên người Việt Nam, 3 thành viên người Pháp), Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty là người Việt. Cùng với việc thành lập Công ty Air Việt Nam, Pháp đầu tư xây dựng Tân Sơn Nhất thành một trong những sân bay quốc tế lớn nhất Đông Nam Á với đường hạ cất cánh dài 2.400m; gửi mua những thiết bị điện tử viễn thông hiện đại trang bị cho sân bay, cử các chuyên viên đi huấn luyện tại nước ngoài.
Trong những ngày đầu thành lập, Air Việt Nam sở hữu 10 máy bay (3 chiếc DC.4, 4 chiếc DC.3, 3 chiếc BRISTOLS). Lợi nhuận của Công ty mỗi tháng trong quãng thời gian từ năm 1951 đến 1952 là 12 triệu đồng, năm 1953 là 20 triệu đồng, và năm 1954 lên tới 52 triệu đồng; với các đường bay chính trong nước: Sài Gòn - Hà Nội, Sài Gòn - Hải Phòng, Sài Gòn - Huế, Sài Gòn - Đồng Hới, Sài Gòn - Nha Trang và Sài Gòn - Đà Lạt; ngoài nước: Sài Gòn - Hong Kong, Sài Gòn - Bangkok, Sài Gòn - Phnompenh, Sài Gòn - Vientiane. Gọi là Công ty Air Việt Nam, nhưng thu nhập luôn có sự phân biệt và phần hơn vẫn thuộc về tay người Pháp.
Ngoài chức năng hoạt động dân dụng sinh lãi, sân bay Tân Sơn Nhất cũng như các sân bay khác ở miền Nam còn được sử dụng cho mục đích quân sự, nơi hạ cất cánh của các loại máy bay ném bom oanh tạc, chở quân đổ bộ, nhảy dù và hộ tống lực lượng bộ binh hành quân càn quét. Sau khi được Quốc hội Pháp chấp thuận cho Chính phủ Bảo Đại thành lập quân đội riêng (11-5-1950), “thủ tướng” Trần Văn Hữu chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển “quân đội quốc gia” có đầy đủ hải-lục-không quân. Năm 1952, Thiếu tướng Tổng tham mưu trưởng “Quân đội Quốc gia” Nguyễn Văn Hinh thành lập Ban không quân, cử người sang Pháp học lái máy bay, đặt tiền đề xây dựng lực lượng không quân của quân đội Sài Gòn sau này.
Chức năng quân sự ngày càng được gia tăng tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ngoài các loại vận tải quân sự như DC.3 (còn gọi là Dakota, chở được khoảng 30 người với tốc độ bay hơn 300km/h), còn có các loại trực thăng và máy bay chiến đấu có nhiệm vụ trinh sát, thả quân và ném bom. Năm 1954, Pháp phải huy động cả những chiếc Dakota dân sự từ sân bay Tân Sơn Nhất làm nhiệm vụ chuyên chở lính dù và quân nhu tiếp viện cho mặt trận Điện Biên Phủ.
PGS - TS Hồ Sơn Đài
Còn nữa
Còn nữa