(QK7 Online) - Cán bộ tập kết Đinh Phục Ba (Bí danh: Ba Méc), sinh ngày 25/11/1929, quê quán xã Hiệp Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Long An (Tân An), trong gia đình trung nông. Cha là Đinh Văn Độ, mẹ là Trần Thị Hợi đều ủng hộ cách mạng và kháng chiến. Anh trai là Đinh Văn Hai (tên hoạt động cách mạng là Đinh Thiếu Sơn) thoát li gia đình từ tháng 8/1945, tham gia kháng chiến chống Pháp hy sinh năm 1961. Trong hồ sơ trước khi đi B, khi cần có thể báo tin về cho cậu (em mẹ) là Đỗ Thanh Hà (Mười Ngoan), công tác tại Ủy ban Thống nhất Trung ương.
Hồ sơ, kỷ vật của đồng chí Đinh Phục Ba.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh quê hương, đất nước bị xâm lược, đời sống khổ cực, khó khăn, sau khi học hết lớp 3, ông Đinh Phục Ba nghỉ ở nhà đi chăn trâu, cắt cỏ.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời mới chỉ 3 tuần, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, đánh chiếm Nam bộ, ông tham gia cách mạng, gia nhập vào Ban Chấp hành Thanh niên cứu quốc xã, làm liên lạc viên. Từ đây, ông đã thoát li gia đình và đi theo cách mạng, phục vụ cách mạng. Ông vào bộ đội làm công tác tình báo cho đơn vị bộ đội địa phương Tân An (Long An). Từ tháng 10/1947 đến tháng 3/1948, ông là Chính trị viên Trung đội đơn vị bộ đội địa phương, rồi Tiểu đội trưởng bộ đội địa phương Tân An (Long An). Ngày 19/8/1948, ông được kết nạp Đảng, đảm nhiệm nhiều vị trí trong đơn vị bộ đội như Trung đội Trưởng, Trưởng ban Quân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (từ tháng 9/1950 - tháng 3/1951), Phó Ban phòng thủ Sông Vàm Cỏ Tây (4/1951 - 6/1952), Trung đội trưởng bộ đội địa phương huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (7/1952 - 6/1954). Năm 1954, trong một lần đi nghiên cứu chiến trường ở khu vực hậu địch thuộc xã Hiệp Thanh, huyện Vàm Cỏ (Châu Thành cũ) tỉnh Tân An (Long An), ông bị địch bắt và giam giữ từ tháng 6/1954. Sau khi thực hiện ngừng bắn, Ban Liên Hiệp đình chiến Đồng Tháp Mười vào can thiệp, ông mới được trả về đơn vị cũ vào tháng 8/1954. Thực hiện nội dung Hiệp định đình chiến, ông tập kết ra Bắc. Tháng 11/1955 ông chuyển ngành, công tác trong ngành Giao thông (Bộ Giao thông), đi học lớp cầu đường, về phụ trách kỹ thuật của Đại đội cầu đường. Tháng 4/1959, ông tham gia học lớp Trung cấp thủy lợi của Bộ Thủy lợi. Từ năm 1961 - 1974, ông công tác ở Ban Quản lý hệ thống nông giang An Kim Hải.
Trước yêu cầu của cách mạng miền Nam, sau gần 20 năm từ ngày tập kết ra Bắc, ngày 15/2/1974, ông lên đường đi chiến trường B, trở về miền Nam. Hồ sơ cán bộ của ông gửi lại trước khi đi gồm những giấy tờ cá nhân như Giấy chứng minh, Sơ yếu lý lịch, Đơn tình nguyện, phiếu kiểm tra sức khỏe nghĩa vụ quân sự, giấy chứng nhận thôi cấp lương thực, Thẻ đoàn viên công đoàn… đặc biệt, có một mảnh giấy nhỏ màu trắng với những dòng chữ viết tay, chỉ hơn 50 từ, mộc mạc, nhưng thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, khát khao mãnh liệt được đóng góp phần sức lực của mình trở về giải phóng quê hương. Trong đơn tình nguyện về Nam, ông viết: “Tôi sẵn sàng về quê hương chiến đấu và công tác (nếu được cấp trên phân công) để góp phần giải phóng quê hương; giải phóng đồng bào miền Nam khỏi cảnh tàn sát chết chóc, đau khổ và lạc hậu do kẻ thù gây nên”.
Những dòng đơn, không chỉ là nguyện vọng tha thiết của người cán bộ cách mạng, mà là sự phản ánh về khí thế của cuộc kháng chiến, về tinh thần đoàn kết dân tộc, về nguyện vọng hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân. Đây mãi là niềm tự hào về truyền thống dân tộc, là biểu tượng sáng ngời của tinh thần yêu nước, cần được lưu truyền cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Thiên Lý