(QK7 Online) - Đi B - trở về Nam chiến đấu, phục vụ chiến đấu là niềm vinh dự và rất đỗi tự hào của một lớp cán bộ, thanh niên, học sinh, sinh viên nửa đầu thế kỷ XX. Đặng Bửu Châu là một người con đất Việt mang tâm thế và niềm tự hào ấy.
Tên khai sinh của ông là Đặng Bửu Châu, bí danh là Việt Châu, sinh ngày 21/11/1931, quê quán xã Tân Phước, Lai Vung, Sa Đéc. Trú quán tại ấp Thạnh Phú, xã Tân Phước, huyện Lai Vung, tỉnh Long Châu Sa, Nam bộ. Cha là Đặng Văn Quới, mẹ là Lê Thị Kỳ. Ông có hai người em là Đặng Minh Huyền và Đặng Minh Diệp.
Ngày 16/8/1970, trong không khí sục sôi của tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, ông đã gửi lại Ủy ban Thống nhất Chính phủ toàn bộ tư trang, hành lý và giấy tờ cá nhân, khoác ba lô, lên đường về Nam. Gần 50 năm trôi qua, lật đọc từng trang hồ sơ cán bộ đi B của ông gửi lại, mong gợi mở để được trở về với ông và gia đình.
Ông tham gia cách mạng từ tháng 6/1945 tại xã Tân Phước, hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên xã, làm bảo vệ trụ sở Đảng Cộng sản Đông Dương huyện Lai Vung. Tháng 5/1947, ông tham gia dân quân du kích xã, huyện, tham gia bộ đội, là Trung đội phó, Phó ban cán sự, tổ trưởng tổ tác chiến huyện đội Lai Vung. Ông vào Đảng ngày 4/4/1948. Từ năm 1950, ông đi học bổ túc cán bộ trung đội, là tổ trưởng đội vũ trang tuyên truyền Lai Vung rồi tham gia công tác địch hậu vùng giáo phái, chiến đấu và phục vụ chiến đấu kháng chiến chống Pháp.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, tích cực lao động, làm việc phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ông chuyển ngành năm 1961, công tác tại Bộ Thủy lợi và Điện lực, đi học kỹ thuật Trường Bộ Giao thông, sau đó về công tác tại Phòng tổ chức, Công ty Thủy điện Thác Bà, Yên Bái, rồi Ty Lao động Hải Dương…Ông được nhận xét là người có tính tình thẳng thắn, công tác nhiệt tình, có nhiều cố gắng, luôn luôn yên tâm công tác, không đòi hỏi đãi ngộ cá nhân… Ông đã được tặng thưởng giấy khen của Tỉnh đội, Trung đoàn và được Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu thành đồng Tổ quốc, huy hiệu Nông trường Ba Vì và nhiều giấy khen, bằng khen cấp tỉnh và tương đương.
Đặc biệt hơn, ký ức về ông còn hiện rõ qua từng dòng đơn tình nguyện đi B: Đứng trước cảnh nước sôi lửa bỏng của dân tộc ta, nhân dân Đông Dương và loài người tiến bộ trên khắp thế giới đã và đang tập trung đấu tranh đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt cảnh tàn sát man rợ và vô nhân đạo nhất của thế kỷ 20. Buộc chúng phải cút khỏi miền Nam và cả Đông Dương.
Quê hương tôi từng giờ, từng phút nhân dân đang đau buồn chứng kiến cảnh tàn phá ghê tởm, đau khổ chưa từng có của lịch sử đấu tranh. Từ lâu và sự ước mong cao nhất của tôi là được lịnh trở về quê hương xây dựng hay cùng nhân dân chiến đấu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo sự tự nhận xét của tôi, tuy tuổi của tôi có nhiều hơn tuổi thanh niên, sức có yếu đi một phần nào nhưng về tinh thần, sức khỏe của tôi hiện nay và kiến thức của tôi vẫn còn đủ điều kiện phục vụ, đảm nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao cho. Nếu tôi được lịnh đi, dù lĩnh vực công tác nào, tôi cũng xin hứa với quý đồng chí, với Đảng, tôi sẽ tạo mọi điều kiện để cùng đội ngũ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp và trước thời gian.
Về tôi, nay đã học xong khóa chuyên tu, kiến thức đã được nâng lên một mức nhất định. Nếu cần bố trí tôi chiến đấu hay làm công tác kinh tế đều được cả. Tôi được đi công tác B hay công tác đất nước Campuchia cũng được…
Tôi tuy đã có vợ, sinh hai con, nhưng không có gì trở ngại việc đi công tác của tôi. Vợ con tôi làm Hợp tác xã nông nghiệp. Đời sống tạm ổn.
Khi tôi cầm bút viết đơn tình nguyện này, xuất phát từ đáy lòng tôi. Vì vậy, tôi xin thiết tha đề nghị với quý đồng chí, với Đảng sẽ giải quyết cho tôi toại nguyện…
Có thể thấy, nguyện vọng được về Nam chiến đấu, phục vụ chiến đấu là mong muốn tha thiết của ông thể hiện qua từng câu, từng chữ, đầy tâm huyết, hướng về miền Nam, sẵn sàng làm bất cứ nhiệm vụ gì, bất chấp những khó khăn, thách thức… tinh thần cách mạng ấy như những ngọn lửa sáng mãi và là niềm tự hào của thế hệ hôm nay và mai sau.
Tên khai sinh của ông là Đặng Bửu Châu, bí danh là Việt Châu, sinh ngày 21/11/1931, quê quán xã Tân Phước, Lai Vung, Sa Đéc. Trú quán tại ấp Thạnh Phú, xã Tân Phước, huyện Lai Vung, tỉnh Long Châu Sa, Nam bộ. Cha là Đặng Văn Quới, mẹ là Lê Thị Kỳ. Ông có hai người em là Đặng Minh Huyền và Đặng Minh Diệp.
Ngày 16/8/1970, trong không khí sục sôi của tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, ông đã gửi lại Ủy ban Thống nhất Chính phủ toàn bộ tư trang, hành lý và giấy tờ cá nhân, khoác ba lô, lên đường về Nam. Gần 50 năm trôi qua, lật đọc từng trang hồ sơ cán bộ đi B của ông gửi lại, mong gợi mở để được trở về với ông và gia đình.
Ông tham gia cách mạng từ tháng 6/1945 tại xã Tân Phước, hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên xã, làm bảo vệ trụ sở Đảng Cộng sản Đông Dương huyện Lai Vung. Tháng 5/1947, ông tham gia dân quân du kích xã, huyện, tham gia bộ đội, là Trung đội phó, Phó ban cán sự, tổ trưởng tổ tác chiến huyện đội Lai Vung. Ông vào Đảng ngày 4/4/1948. Từ năm 1950, ông đi học bổ túc cán bộ trung đội, là tổ trưởng đội vũ trang tuyên truyền Lai Vung rồi tham gia công tác địch hậu vùng giáo phái, chiến đấu và phục vụ chiến đấu kháng chiến chống Pháp.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, tích cực lao động, làm việc phục vụ sự nghiệp cách mạng. Ông chuyển ngành năm 1961, công tác tại Bộ Thủy lợi và Điện lực, đi học kỹ thuật Trường Bộ Giao thông, sau đó về công tác tại Phòng tổ chức, Công ty Thủy điện Thác Bà, Yên Bái, rồi Ty Lao động Hải Dương…Ông được nhận xét là người có tính tình thẳng thắn, công tác nhiệt tình, có nhiều cố gắng, luôn luôn yên tâm công tác, không đòi hỏi đãi ngộ cá nhân… Ông đã được tặng thưởng giấy khen của Tỉnh đội, Trung đoàn và được Huân chương kháng chiến hạng Ba, Huân chương chiến sĩ vẻ vang, Huy hiệu thành đồng Tổ quốc, huy hiệu Nông trường Ba Vì và nhiều giấy khen, bằng khen cấp tỉnh và tương đương.
Đặc biệt hơn, ký ức về ông còn hiện rõ qua từng dòng đơn tình nguyện đi B: Đứng trước cảnh nước sôi lửa bỏng của dân tộc ta, nhân dân Đông Dương và loài người tiến bộ trên khắp thế giới đã và đang tập trung đấu tranh đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt cảnh tàn sát man rợ và vô nhân đạo nhất của thế kỷ 20. Buộc chúng phải cút khỏi miền Nam và cả Đông Dương.
Quê hương tôi từng giờ, từng phút nhân dân đang đau buồn chứng kiến cảnh tàn phá ghê tởm, đau khổ chưa từng có của lịch sử đấu tranh. Từ lâu và sự ước mong cao nhất của tôi là được lịnh trở về quê hương xây dựng hay cùng nhân dân chiến đấu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Theo sự tự nhận xét của tôi, tuy tuổi của tôi có nhiều hơn tuổi thanh niên, sức có yếu đi một phần nào nhưng về tinh thần, sức khỏe của tôi hiện nay và kiến thức của tôi vẫn còn đủ điều kiện phục vụ, đảm nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao cho. Nếu tôi được lịnh đi, dù lĩnh vực công tác nào, tôi cũng xin hứa với quý đồng chí, với Đảng, tôi sẽ tạo mọi điều kiện để cùng đội ngũ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp và trước thời gian.
Về tôi, nay đã học xong khóa chuyên tu, kiến thức đã được nâng lên một mức nhất định. Nếu cần bố trí tôi chiến đấu hay làm công tác kinh tế đều được cả. Tôi được đi công tác B hay công tác đất nước Campuchia cũng được…
Tôi tuy đã có vợ, sinh hai con, nhưng không có gì trở ngại việc đi công tác của tôi. Vợ con tôi làm Hợp tác xã nông nghiệp. Đời sống tạm ổn.
Khi tôi cầm bút viết đơn tình nguyện này, xuất phát từ đáy lòng tôi. Vì vậy, tôi xin thiết tha đề nghị với quý đồng chí, với Đảng sẽ giải quyết cho tôi toại nguyện…
Có thể thấy, nguyện vọng được về Nam chiến đấu, phục vụ chiến đấu là mong muốn tha thiết của ông thể hiện qua từng câu, từng chữ, đầy tâm huyết, hướng về miền Nam, sẵn sàng làm bất cứ nhiệm vụ gì, bất chấp những khó khăn, thách thức… tinh thần cách mạng ấy như những ngọn lửa sáng mãi và là niềm tự hào của thế hệ hôm nay và mai sau.
Thiên lý