(QK7 Online) - Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có một lực lượng đặc biệt phát triển mạnh mẽ ngay trong lòng địch, đó là quần chúng nhân dân Sài Gòn đã tích cực tham gia xây dựng các căn cứ cách mạng, hầm giấu vũ khí, cùng với Quân giải phóng làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Trong con hẻm của đường Cao Thắng, phường 3, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, có một “địa chỉ đỏ” mà cách đây 64 năm là nơi đứng chân của Ban tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Đó là căn nhà số 51/10/14 Cao Thắng, được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chủ nhân của ngôi nhà là vợ chồng ông bà Nguyễn Trọng Xuất và Trần Thị Ngọc Sương.
Trong con hẻm của đường Cao Thắng, phường 3, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, có một “địa chỉ đỏ” mà cách đây 64 năm là nơi đứng chân của Ban tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Đó là căn nhà số 51/10/14 Cao Thắng, được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chủ nhân của ngôi nhà là vợ chồng ông bà Nguyễn Trọng Xuất và Trần Thị Ngọc Sương.
Vợ chồng ông bà Nguyễn Trọng Xuất và Trần Thị Ngọc Sương trước căn nhà số 51/10/14 Cao Thắng
Dẫn chúng tôi đến thăm “địa chỉ đỏ” của vùng Bàn Cờ xưa, ông Nguyễn Trọng Xuất (tức Sáu Nhân), nguyên Phó ban Tuyên huấn Khu ủy Sài Gòn - Gia Định cho biết, ngôi nhà này vốn là nhà riêng của cụ thân sinh ra ông, năm 1954, ông Sáu Nhân đã thuyết phục cha giao nhà cho Ban tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ làm trụ sở hoạt động.
Từ năm 1957 đến 1960, địa chỉ này là cơ sở hoạt động của Ban cán sự Đảng thị xã Mỹ Tho (Tiền Giang). Từ năm 1964 đến 1975, “địa chỉ đỏ” phục vụ công tác nhiều mặt của Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Đầu năm 1961, Tỉnh ủy Mỹ Tho chỉ đạo ông Sáu Nhân vào khu giải phóng, tham gia Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh. Bà Trần Thị Ngọc Sương cùng 6 con nhỏ ở lại thành phố tiếp tục dùng cơ sở này để phục vụ cho các nhiệm vụ cách mạng. Bà Sương cùng các chị trong Ban Phụ vận Khu ủy Sài Gòn-Gia Định bí mật may cờ, biểu ngữ, đào hầm giấu vũ khí sau khi sử dụng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Dưới danh nghĩa là cơ sở sản xuất bánh phồng tôm Tiền Giang, bà Sương vừa tạo nguồn thu để nuôi các con ăn học, vừa tạo vỏ bọc cho hoạt động cách mạng. Trong suốt thời gian dài (21 năm), “địa chỉ đỏ” Cao Thắng vẫn luôn đảm bảo tính bí mật, an toàn mặc dù nằm ngày giữa sào huyệt địch. Theo ông Sáu Nhân, yếu tố quyết định hàng đầu cho thắng lợi này chính là lòng yêu nước nồng nàn; tinh thần kiên cường chống kẻ thù xâm lược; sự sáng tạo, mưu trí của các đồng chí quản lý cơ sở và vai trò quan trọng của nhân dân khu Bàn Cờ đã trở thành “căn cứ nhân tâm” của cách mạng. Nếu không có “căn cứ nhân tâm” đó thì không “địa chỉ đỏ” nào, không vùng lõm chính trị nào có thể tồn tại trong lòng địch.
Tại hội thảo khoa học “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử” vừa được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều đại biểu đã đặt ra vấn đề “thế trận lòng dân” trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đồng chí Nguyễn Văn Đua, nguyên Phó Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Nổi dậy của quần chúng nhân dân trong Mậu Thân 1968 là một nét độc đáo của Sài Gòn. Quần chúng đã tham gia dẫn đường cho bộ đội tiến vào trung tâm thành phố, tiếp tế cho quân giải phóng; tải vũ khí; may cờ, treo cờ Mặt trận, dán biểu ngữ; giữ gìn an ninh trật tự; giành chính quyền ở các xóm lao động, giải tán chính quyền, kiểm soát đường phố, rải truyền đơn, xé cờ ba sọc, đốt xe quân sự, gây tiếng nổ, phá hoại cầu cống, trạm biến thế điện; nuôi giấu thương binh; trừng trị bọn ác ôn, chỉ điểm; vận động quân đội Sài Gòn hạ vũ khí, về với cách mạng; tác động vào báo chí công khai đưa tin chiến sự, góp phần cổ động cho phong trào chống đế quốc Mỹ và tay sai.
Từ năm 1957 đến 1960, địa chỉ này là cơ sở hoạt động của Ban cán sự Đảng thị xã Mỹ Tho (Tiền Giang). Từ năm 1964 đến 1975, “địa chỉ đỏ” phục vụ công tác nhiều mặt của Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Đầu năm 1961, Tỉnh ủy Mỹ Tho chỉ đạo ông Sáu Nhân vào khu giải phóng, tham gia Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh. Bà Trần Thị Ngọc Sương cùng 6 con nhỏ ở lại thành phố tiếp tục dùng cơ sở này để phục vụ cho các nhiệm vụ cách mạng. Bà Sương cùng các chị trong Ban Phụ vận Khu ủy Sài Gòn-Gia Định bí mật may cờ, biểu ngữ, đào hầm giấu vũ khí sau khi sử dụng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Dưới danh nghĩa là cơ sở sản xuất bánh phồng tôm Tiền Giang, bà Sương vừa tạo nguồn thu để nuôi các con ăn học, vừa tạo vỏ bọc cho hoạt động cách mạng. Trong suốt thời gian dài (21 năm), “địa chỉ đỏ” Cao Thắng vẫn luôn đảm bảo tính bí mật, an toàn mặc dù nằm ngày giữa sào huyệt địch. Theo ông Sáu Nhân, yếu tố quyết định hàng đầu cho thắng lợi này chính là lòng yêu nước nồng nàn; tinh thần kiên cường chống kẻ thù xâm lược; sự sáng tạo, mưu trí của các đồng chí quản lý cơ sở và vai trò quan trọng của nhân dân khu Bàn Cờ đã trở thành “căn cứ nhân tâm” của cách mạng. Nếu không có “căn cứ nhân tâm” đó thì không “địa chỉ đỏ” nào, không vùng lõm chính trị nào có thể tồn tại trong lòng địch.
Tại hội thảo khoa học “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử” vừa được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều đại biểu đã đặt ra vấn đề “thế trận lòng dân” trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đồng chí Nguyễn Văn Đua, nguyên Phó Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Nổi dậy của quần chúng nhân dân trong Mậu Thân 1968 là một nét độc đáo của Sài Gòn. Quần chúng đã tham gia dẫn đường cho bộ đội tiến vào trung tâm thành phố, tiếp tế cho quân giải phóng; tải vũ khí; may cờ, treo cờ Mặt trận, dán biểu ngữ; giữ gìn an ninh trật tự; giành chính quyền ở các xóm lao động, giải tán chính quyền, kiểm soát đường phố, rải truyền đơn, xé cờ ba sọc, đốt xe quân sự, gây tiếng nổ, phá hoại cầu cống, trạm biến thế điện; nuôi giấu thương binh; trừng trị bọn ác ôn, chỉ điểm; vận động quân đội Sài Gòn hạ vũ khí, về với cách mạng; tác động vào báo chí công khai đưa tin chiến sự, góp phần cổ động cho phong trào chống đế quốc Mỹ và tay sai.
Cột khói bốc lên trong nội đô Sài Gòn
Quân giải phóng chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của địch tại Quận 5
Một góc đài Phát thanh Sài Gòn sau đợt tấn công của các chiến sĩ Biệt động
Quân giải phóng chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của địch tại Quận 5
Một góc đài Phát thanh Sài Gòn sau đợt tấn công của các chiến sĩ Biệt động
Công trình nghiên cứu “Lịch sử Nam bộ kháng chiến” có viết: “Sau hai mươi tám ngày rưỡi chính quyền Việt Minh làm chủ thành phố từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 23 tháng 9 năm 1945, Sài Gòn liên tục sống dưới chế độ thống trị của Pháp rồi Mỹ. Mậu Thân là lần đầu tiên sau ngần ấy thời gian, cách mạng công khai xuất hiện với con người bằng xương bằng thịt, xuất hiện ồ ạt, xuất hiện trong tư thế chiến đấu, thế mà lại được quần chúng đón tiếp,… mến phục các chiến sĩ cách mạng”.
Tuy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, nhưng đã làm dấy lên làn sóng đấu tranh, chống Mỹ và tay sai, thổi bùng ngọn lửa yêu nước và tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Bài học từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là phải luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, dựa vào nhân dân, giác ngộ, tập hợp nhân dân thành một lực lượng chính trị quan trọng, có sức mạnh dời non lấp bể, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, đi đến thắng lợi.
50 năm đã qua, những giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm được đúc rút bằng xương máu của biết bao cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn nóng hổi về tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Đó cũng là bài học về xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, như lời Bác Hồ căn dặn: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Tuy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, nhưng đã làm dấy lên làn sóng đấu tranh, chống Mỹ và tay sai, thổi bùng ngọn lửa yêu nước và tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Bài học từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là phải luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, dựa vào nhân dân, giác ngộ, tập hợp nhân dân thành một lực lượng chính trị quan trọng, có sức mạnh dời non lấp bể, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, đi đến thắng lợi.
50 năm đã qua, những giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm được đúc rút bằng xương máu của biết bao cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn nóng hổi về tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Đó cũng là bài học về xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, như lời Bác Hồ căn dặn: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Thu Cúc