(QK7 Online) - Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Quân và dân Nam bộ, trước hết là quân và dân Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn đã đứng lên chiến đấu.
Chiến sĩ Sư đoàn 5 trên đường ra thao trường.
Cuộc chiến lan rộng ra khắp miền Đông và sau đó là miền Tây Nam bộ. Trên địa bàn miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ, các đơn vị vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Đó là những đơn vị vũ trang do đảng viên cộng sản hoặc cán bộ cách mạng cốt cán đứng ra tập hợp, chỉ huy. Để kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến đang ngày càng lan rộng, đặc biệt là thống nhất và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, ngày 10/12/1945, tại Hội nghị quân sự Nam bộ do Xứ ủy tổ chức (họp ở xã Bình Hòa Nam, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An) đã quyết định tổ chức Nam bộ thành 3 khu quân sự 7, 8, 9. Địa bàn Khu 7 gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Ngày 10/12/1945 đã trở thành ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 7.
Năm 1946, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, lực lượng vũ trang Khu 7 đã đoàn kết một lòng, không quản gian khổ, hy sinh, chiến đấu dũng cảm, lập nên những chiến công vang dội như trận: Trung Hưng - Ràng, Đất Cuốc, Đồng Xoài, La Ngà - Định Quán… góp phần xứng đáng cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Quân khu 7 - miền Đông Nam bộ đã cùng với bộ đội chủ lực Miền anh dũng vượt qua những năm tháng vô cùng ác liệt, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và không ngừng phát triển, phối hợp chiến đấu làm nên những thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, tác động đến cục diện chiến trường miền Nam mà lịch sử mãi mãi khắc ghi như: Chiến thắng Tua Hai, Chiến dịch Bình Giã, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Phước Long, trận đánh tòa Đại sứ quán Mỹ, kho xăng Nhà Bè, sân bay Tân Sơn Nhất… Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh vào tận sào huyệt của Mỹ - ngụy tại Sài Gòn; Chiến dịch giải phóng Lộc Ninh, Đường 14, đặc biệt là đòn điểm huyệt Phước Long. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân Quân khu 7 đã đồng loạt tiến công, nổi dậy, liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, phối hợp với Quân đoàn 4 tiến công đập tan tuyến phòng ngự Xuân Lộc, mở toang “cánh cửa thép” từ hướng Đông vào Sài Gòn. Song song với các chiến dịch tiến công trên, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định nhanh chóng mở ra nhiều lõm giải phóng ven đô, như ở Gò Vấp, Hóc Môn, Bình Chánh, Thủ Đức, Tân Bình… tạo thế, bàn đạp cho các lực lượng tiến công vào nội đô từ nhiều hướng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành một chặng đường dài “đi trước, về sau” đầy gian khổ hy sinh, nhưng vô cùng vẻ vang góp phần xứng đáng vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt. Trong đội hình Quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương trong thời kỳ đổi mới đất nước, Quân khu thường xuyên nắm chắc, làm chủ tình hình vùng trời, vùng biển, biên giới, nội địa, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm. Đề xuất kịp thời những chủ trương, giải pháp, xử lý tốt các tình huống diễn ra, không để bị động bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Lực lượng vũ trang Quân khu luôn năng động, sáng tạo, đi đầu trong nhiều lĩnh vực, viết tiếp những trang sử mới.
Trải qua 73 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành (1945-2018), các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã xây đắp, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang được đúc kết thành 16 chữ vàng “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng”.
Năm 1946, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, lực lượng vũ trang Khu 7 đã đoàn kết một lòng, không quản gian khổ, hy sinh, chiến đấu dũng cảm, lập nên những chiến công vang dội như trận: Trung Hưng - Ràng, Đất Cuốc, Đồng Xoài, La Ngà - Định Quán… góp phần xứng đáng cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng vũ trang Quân khu 7 - miền Đông Nam bộ đã cùng với bộ đội chủ lực Miền anh dũng vượt qua những năm tháng vô cùng ác liệt, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và không ngừng phát triển, phối hợp chiến đấu làm nên những thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, tác động đến cục diện chiến trường miền Nam mà lịch sử mãi mãi khắc ghi như: Chiến thắng Tua Hai, Chiến dịch Bình Giã, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Phước Long, trận đánh tòa Đại sứ quán Mỹ, kho xăng Nhà Bè, sân bay Tân Sơn Nhất… Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh vào tận sào huyệt của Mỹ - ngụy tại Sài Gòn; Chiến dịch giải phóng Lộc Ninh, Đường 14, đặc biệt là đòn điểm huyệt Phước Long. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân Quân khu 7 đã đồng loạt tiến công, nổi dậy, liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, phối hợp với Quân đoàn 4 tiến công đập tan tuyến phòng ngự Xuân Lộc, mở toang “cánh cửa thép” từ hướng Đông vào Sài Gòn. Song song với các chiến dịch tiến công trên, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định nhanh chóng mở ra nhiều lõm giải phóng ven đô, như ở Gò Vấp, Hóc Môn, Bình Chánh, Thủ Đức, Tân Bình… tạo thế, bàn đạp cho các lực lượng tiến công vào nội đô từ nhiều hướng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành một chặng đường dài “đi trước, về sau” đầy gian khổ hy sinh, nhưng vô cùng vẻ vang góp phần xứng đáng vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt. Trong đội hình Quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương trong thời kỳ đổi mới đất nước, Quân khu thường xuyên nắm chắc, làm chủ tình hình vùng trời, vùng biển, biên giới, nội địa, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm. Đề xuất kịp thời những chủ trương, giải pháp, xử lý tốt các tình huống diễn ra, không để bị động bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Lực lượng vũ trang Quân khu luôn năng động, sáng tạo, đi đầu trong nhiều lĩnh vực, viết tiếp những trang sử mới.
Trải qua 73 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành (1945-2018), các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã xây đắp, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang được đúc kết thành 16 chữ vàng “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng”.
Đại tá, TS Lê Hồng Điệp, Trưởng phòng Khoa học quân sự