(QK7 Online) - Từ cuối năm 1978, mặc dù bị quân và dân Việt Nam có sự tham gia của các đơn vị vũ trang đoàn kết yêu nước Campuchia đánh trả gây tổn thất lớn, nhưng lực lượng địch bên kia biên giới các tỉnh Sông Bé, Tây Ninh, Long An vẫn còn 13 sư đoàn, tính cả quân từ quân khu trung tâm tăng cường, tổng quân số địch trên địa bàn đối diện với Quân khu 7 lên đến hàng vạn tên. Tuy nhiên, nhiều đơn vị đã bị thiệt hại nặng, mất sức chiến đấu, chỉ hiện hữu trên danh nghĩa. Mặc dù vậy, tập đoàn Pol Pot – Iêng Xary vẫn kiên trì đẩy mạnh các cuộc tiến công xâm lấn biên giới. Chúng ráo riết chuẩn bị mọi mặt cho đợt tiến công mới vào đầu mùa khô 1978 –1979.
Bộ Tư lệnh Quân khu 7 trao hỗ trợ giúp đỡ BTL Quân khu 1, Campuchia.
Trong lúc đó, cũng từ cuối năm 1978, phong trào phản kháng chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot – Iêng Xary diễn ra mạnh mẽ. Ngày 2-12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra đời tại Snuol do ông Heng Samrin làm chủ tịch. Mặt trận đề ra nhiệm vụ trước mắt là: “Đoàn kết toàn dân, nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động gia đình trị Pol Pot – Iêng Xary, bè lũ độc tài quân phiệt trong nước làm tay sai cho bọn phản động nước ngoài. Xóa bỏ chế độ tàn ác đẫm máu của chúng, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân”. Giữa tháng 12-1978, Bộ Chỉ huy tối cao Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia hạ quyết tâm phát động cuộc tổng tiến công và nổi dậy, lật đổ tập đoàn diệt chủng Pol Pot – Iêng Xary.
Vào thời điểm này, đứng chân trên địa bàn biên giới, lực lượng vũ trang Quân khu 7 có 3 sư đoàn bộ binh (5, 302, 303) và 1 trung đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn binh chủng, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, tổng quân số quân 120.098 cán bộ, chiến sĩ. Ngoài ra, còn có 9 trung đoàn, 6 tiểu đoàn công binh của các tỉnh, thành thuộc địa bàn Quân khu (Thành phố Hồ Chí Minh: 2 trung đoàn, Đồng Nai: 2 trung đoàn, Sông Bé: 2 trung đoàn, Tây Ninh: 2 trung đoàn, Long An: 1 trung đoàn). Những đơn vị này đều đã kinh qua hai năm chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc và tham gia các chiến dịch phản công vào đất địch, hiểu rõ địa bàn, thủ đoạn cách thức tác của địch và đang giành lại quyền chủ động chiến trường.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy tối cao Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Ban chỉ huy “Lực lượng vũ trang cách mạng Đoàn kết cứu nước Campuchia” đề nghị Quân đội Việt Nam cùng phối hợp thực hiện cuộc tổng tiến công giải phóng Campuchia. Ngày 17-12-1978, Bộ Quốc phòng phê chuẩn kế hoạch và tổ chức hiệp đồng chiến đấu phối hợp với bạn. Kế hoạch gồm 3 chiến dịch kế tiếp nhau: Chiến dịch 1 giải phóng các tỉnh miền Đông Campuchia, chiến dịch 2 loại khỏi vòng chiến đấu các đơn vị chủ lực địch đã đưa ra phía trước, chiến dịch 3 giải phóng Phnom Penh. Quân khu 7 được giao nhiệm vụ mở đầu cuộc tiến công nổi dậy trên hướng thứ yếu của Bộ, đánh chiếm thị xã Kratíe, thực hành nghi binh, thu hút, đánh lạc hướng phán đoán của địch để giành dân, mở rộng địa bàn.
Được sự yểm trợ của không quân Bộ, Quân khu 7 sử dụng 2 sư đoàn bộ binh (5 và 303), thực hành tiến công trên hai hướng: Bắc và Nam. Từ ngày 24 đến ngày 30-12-1978, Sư đoàn 5 tiến công dọc trục lộ 13 đánh chiếm Kratíe, sau đó sử dụng một lực lượng thích hợp tiến lên hướng bắc để mở rộng khu vực đứng chân, tạo điều kiện cho đại bộ phận của Sư đoàn 5 vượt sông Mê Kông. Sư đoàn 303 tiến công vào hướng nam thị xã Kratíe, đánh vu hồi từ nam thị xã lên, dùng một bộ phận phát triển xuống hướng nam. Các đơn vị vừa hành tiến vừa tổ chức xóa sổ các cụm quân địch phòng ngự và đánh địch phản kích. Đến 16 giờ 30 phút ngày 30-12-1978, Sư đoàn 5 làm chủ hoàn toàn thị xã Kratíe. Đây là thị xã đầu tiên của Campuchia được giải phóng. Từ ngày 31-12-1978 đến 7-1-1979, lực lượng Quân khu 7 phát triển tiến công. Sư đoàn 5 đánh chiếm ngã ba Xan Đan, Srê Bau, Som Bô, tây bờ sông Kratíe. Sư đoàn 303 tiến công về hướng nam, đánh địch ở Ta Am, Chàm Lạc, Dầu Dò, Komtía. Sư đoàn 302 đột kích phá tuyến phòng ngự của địch ở bắc Lò Gò – Xa Mát, làm chủ ngã ba không tên, Ta Am.
Sau khi giải phóng thị xã Kratíe, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu giao tiếp nhiệm vụ cho Quân khu 7 tham gia chiến dịch tổng tiến công cơ động đường dài, đánh chiếm Sisophon ở Bắc Campuchia. Được lực lượng công binh của Bộ hỗ trợ, các Sư đoàn 5, 302, 303 bước vào chiến dịch. Sư đoàn bộ binh 5, từ ngày 3-1 một bộ phận tổ chức vượt sông Mê Kông ở Som Bô, bộ phận còn lại vượt sông ở Kampong Cham tiến qua Kampong Thom đánh chiếm thị trấn Cra Lanh thuộc Xiêm Riệp. Từ ngày 11-1-1979, đơn vị bắt đầu đánh chiếm Sisophon, các mục tiêu Nimit, Thmo Puoc, Mongconbrey và Pailin, mục tiêu cuối cùng của địch ở biên giới Thái Lan – Campuchia. Sư đoàn bộ binh 302 sau khi tiến công đột phá tuyến phòng ngự và bàn đạp tiến công của địch ở biên giới tiếp tục truy quét kết hợp đánh địch dọc tuyến đường 24, đường 7 đến ngã ba Xtưng. Sau đó phát triển lên tây bắc Đầm Be đánh chiếm Oddar Meancheay rồi tiến về hướng Tây Bắc Thmo Puốc truy quét địch. Sư đoàn bộ binh 303 từ ngày 8-1 cặp theo bờ đông sông Mê Kông tiến theo hướng bắc nam, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu ở ven sông Sơ Lông, thị trấn Slong. Sau đó truy quét địch ở khu vực Đầm Be, ngã tư Nước Đá, rồi hành quân vượt sông Mê Kông ở bến Kampong Cham, truy quét địch ở Cham Caldon. Trung đoàn Gia Định thành phố Hồ Chí Minh, đêm 22-1-1979 tham gia tiến công giải phóng thị xã Takéo trong đêm 27 Tết Nguyên Đán năm Kỷ Mùi. Chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary hoàn toàn sụp đổ trên toàn bộ lãnh thổ đất nước Chùa Tháp.
Đến đây, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc của lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã kết thúc thắng lợi. Theo thống kê, thiệt hại trên địa bàn các tỉnh biên giới của Quân khu, 1.188 người dân vô tội bị sát hại, 3.909 căn nhà bị đốt phá, 192 ngôi trường, bệnh viện, trạm xá bị phá hủy, 6.567con trâu bò bị giết chết... Hầu hết các đơn vị vũ trang của Quân khu được điều lên biên giới, hàng chục vạn lượt dân công hỏa tuyến, hàng chục triệu tấn vật chất được huy động để xây dưng tuyến phòng thủ biên giới, Quân khu 7 đã góp một phần công sức xứng đáng vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Pol Pot – Iêng Xary trên biên giới Tây Nam. 139 cán bộ chiến sĩ mất tích, 12.239 người bị thương, 3.734 người đã anh dũng ngã xuống trên mọi nẻo đường biên giới vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã để lại những bài học lịch sử vô giá về tinh thần cảnh giác cách mạng, về nhận diện kẻ thù, về ý thức chuẩn bị lực lượng, xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh và khu vực phòng thủ từ thời binh, về nghệ thuật tác chiến đánh kẻ thù mới chưa từng có tiền lệ, về thực hiện nghĩa vụ quốc tế và liên minh chiến đấu với Quân đội đoàn kết yêu nước Campuchia. Những bài học ấy được vận dụng có hiệu quả trong thời gian 10 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7 làm nghĩa vụ quốc tế diễn ra ngay sau đó tại đất nước Chùa Tháp, và vẫn còn những giá trị thời sự nóng hổi cho đến ngày nay!
Vào thời điểm này, đứng chân trên địa bàn biên giới, lực lượng vũ trang Quân khu 7 có 3 sư đoàn bộ binh (5, 302, 303) và 1 trung đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn binh chủng, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, tổng quân số quân 120.098 cán bộ, chiến sĩ. Ngoài ra, còn có 9 trung đoàn, 6 tiểu đoàn công binh của các tỉnh, thành thuộc địa bàn Quân khu (Thành phố Hồ Chí Minh: 2 trung đoàn, Đồng Nai: 2 trung đoàn, Sông Bé: 2 trung đoàn, Tây Ninh: 2 trung đoàn, Long An: 1 trung đoàn). Những đơn vị này đều đã kinh qua hai năm chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc và tham gia các chiến dịch phản công vào đất địch, hiểu rõ địa bàn, thủ đoạn cách thức tác của địch và đang giành lại quyền chủ động chiến trường.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy tối cao Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Ban chỉ huy “Lực lượng vũ trang cách mạng Đoàn kết cứu nước Campuchia” đề nghị Quân đội Việt Nam cùng phối hợp thực hiện cuộc tổng tiến công giải phóng Campuchia. Ngày 17-12-1978, Bộ Quốc phòng phê chuẩn kế hoạch và tổ chức hiệp đồng chiến đấu phối hợp với bạn. Kế hoạch gồm 3 chiến dịch kế tiếp nhau: Chiến dịch 1 giải phóng các tỉnh miền Đông Campuchia, chiến dịch 2 loại khỏi vòng chiến đấu các đơn vị chủ lực địch đã đưa ra phía trước, chiến dịch 3 giải phóng Phnom Penh. Quân khu 7 được giao nhiệm vụ mở đầu cuộc tiến công nổi dậy trên hướng thứ yếu của Bộ, đánh chiếm thị xã Kratíe, thực hành nghi binh, thu hút, đánh lạc hướng phán đoán của địch để giành dân, mở rộng địa bàn.
Được sự yểm trợ của không quân Bộ, Quân khu 7 sử dụng 2 sư đoàn bộ binh (5 và 303), thực hành tiến công trên hai hướng: Bắc và Nam. Từ ngày 24 đến ngày 30-12-1978, Sư đoàn 5 tiến công dọc trục lộ 13 đánh chiếm Kratíe, sau đó sử dụng một lực lượng thích hợp tiến lên hướng bắc để mở rộng khu vực đứng chân, tạo điều kiện cho đại bộ phận của Sư đoàn 5 vượt sông Mê Kông. Sư đoàn 303 tiến công vào hướng nam thị xã Kratíe, đánh vu hồi từ nam thị xã lên, dùng một bộ phận phát triển xuống hướng nam. Các đơn vị vừa hành tiến vừa tổ chức xóa sổ các cụm quân địch phòng ngự và đánh địch phản kích. Đến 16 giờ 30 phút ngày 30-12-1978, Sư đoàn 5 làm chủ hoàn toàn thị xã Kratíe. Đây là thị xã đầu tiên của Campuchia được giải phóng. Từ ngày 31-12-1978 đến 7-1-1979, lực lượng Quân khu 7 phát triển tiến công. Sư đoàn 5 đánh chiếm ngã ba Xan Đan, Srê Bau, Som Bô, tây bờ sông Kratíe. Sư đoàn 303 tiến công về hướng nam, đánh địch ở Ta Am, Chàm Lạc, Dầu Dò, Komtía. Sư đoàn 302 đột kích phá tuyến phòng ngự của địch ở bắc Lò Gò – Xa Mát, làm chủ ngã ba không tên, Ta Am.
Sau khi giải phóng thị xã Kratíe, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu giao tiếp nhiệm vụ cho Quân khu 7 tham gia chiến dịch tổng tiến công cơ động đường dài, đánh chiếm Sisophon ở Bắc Campuchia. Được lực lượng công binh của Bộ hỗ trợ, các Sư đoàn 5, 302, 303 bước vào chiến dịch. Sư đoàn bộ binh 5, từ ngày 3-1 một bộ phận tổ chức vượt sông Mê Kông ở Som Bô, bộ phận còn lại vượt sông ở Kampong Cham tiến qua Kampong Thom đánh chiếm thị trấn Cra Lanh thuộc Xiêm Riệp. Từ ngày 11-1-1979, đơn vị bắt đầu đánh chiếm Sisophon, các mục tiêu Nimit, Thmo Puoc, Mongconbrey và Pailin, mục tiêu cuối cùng của địch ở biên giới Thái Lan – Campuchia. Sư đoàn bộ binh 302 sau khi tiến công đột phá tuyến phòng ngự và bàn đạp tiến công của địch ở biên giới tiếp tục truy quét kết hợp đánh địch dọc tuyến đường 24, đường 7 đến ngã ba Xtưng. Sau đó phát triển lên tây bắc Đầm Be đánh chiếm Oddar Meancheay rồi tiến về hướng Tây Bắc Thmo Puốc truy quét địch. Sư đoàn bộ binh 303 từ ngày 8-1 cặp theo bờ đông sông Mê Kông tiến theo hướng bắc nam, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu ở ven sông Sơ Lông, thị trấn Slong. Sau đó truy quét địch ở khu vực Đầm Be, ngã tư Nước Đá, rồi hành quân vượt sông Mê Kông ở bến Kampong Cham, truy quét địch ở Cham Caldon. Trung đoàn Gia Định thành phố Hồ Chí Minh, đêm 22-1-1979 tham gia tiến công giải phóng thị xã Takéo trong đêm 27 Tết Nguyên Đán năm Kỷ Mùi. Chế độ diệt chủng của tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary hoàn toàn sụp đổ trên toàn bộ lãnh thổ đất nước Chùa Tháp.
Đến đây, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc của lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã kết thúc thắng lợi. Theo thống kê, thiệt hại trên địa bàn các tỉnh biên giới của Quân khu, 1.188 người dân vô tội bị sát hại, 3.909 căn nhà bị đốt phá, 192 ngôi trường, bệnh viện, trạm xá bị phá hủy, 6.567con trâu bò bị giết chết... Hầu hết các đơn vị vũ trang của Quân khu được điều lên biên giới, hàng chục vạn lượt dân công hỏa tuyến, hàng chục triệu tấn vật chất được huy động để xây dưng tuyến phòng thủ biên giới, Quân khu 7 đã góp một phần công sức xứng đáng vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Pol Pot – Iêng Xary trên biên giới Tây Nam. 139 cán bộ chiến sĩ mất tích, 12.239 người bị thương, 3.734 người đã anh dũng ngã xuống trên mọi nẻo đường biên giới vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của lực lượng vũ trang Quân khu 7 đã để lại những bài học lịch sử vô giá về tinh thần cảnh giác cách mạng, về nhận diện kẻ thù, về ý thức chuẩn bị lực lượng, xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh và khu vực phòng thủ từ thời binh, về nghệ thuật tác chiến đánh kẻ thù mới chưa từng có tiền lệ, về thực hiện nghĩa vụ quốc tế và liên minh chiến đấu với Quân đội đoàn kết yêu nước Campuchia. Những bài học ấy được vận dụng có hiệu quả trong thời gian 10 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7 làm nghĩa vụ quốc tế diễn ra ngay sau đó tại đất nước Chùa Tháp, và vẫn còn những giá trị thời sự nóng hổi cho đến ngày nay!
Đại tá, PGS, TS Hồ Sơn Đài, nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7